Kinh tế thế giới 2010: Mong manh trong ổn định

Cuộc suy thoái kinh tế đã khôngtai hại như nhiều người lo sợ, nhưng hậu quả của nó sẽ nguy hiểm hơn nhiều ngườitưởng.

Cuộc suy thoái kinh tế đã không tai hại nhưnhiều người lo sợ, nhưng hậu quả của nó sẽ nguy hiểm hơn nhiều người tưởng.

Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầunăm 2009 được coi là một cuộc “Đại Suy thoái” - một năm mà kinh tế thế giới phảichịu đựng sự sụt giảm sâu nhất kể từ Thế chiến thứ hai. Nhưng theo tuần báo TheEconomist, năm nay cũng có thể gọi là cuộc “Đại Ổn định,” một năm bất thườngkhông chỉ ở khía cạnh sản lượng bị sụt giảm sâu mà cả ở khía cạnh nhân loại đãtránh được một thảm họa kinh tế. 

Mười hai tháng trước, nỗi kinh hoàng sinh ra từ vụ phá sản Ngân hàng LehmanBrothers bên Mỹ đã đẩy các thị trường tài chính tới bờ vực sụp đổ. Hoạt độngkinh tế toàn cầu, từ sản xuất công nghiệp đến ngoại thương, đã xuống dốc nhanhhơn thời kỳ Đại Khủng hoảng năm 1930.

Tuy nhiên lần này, đà xuống dốc đã bị ngăn chặn chỉ sau vài tháng. Các nền kinhtế đang phát triển cỡ lớn đã tăng tốc trước nhất và nhanh nhất. Sản lượng củaTrung Quốc, bị đình trệ nhưng không sụt giảm, đã tăng trở lại ở mức 17%/năm kểtừ quý II/2009.

Sang giữa năm, các nền kinh tế lớn và giàu có nhất thế giới (ngoại trừ Anh vàTây Ban Nha) đã bắt đầu tăng trở lại, chỉ còn vài nước bị tụt hậu, chẳng hạn nhưLatvia và Ireland, có vẻ như hiện vẫn còn trong tình trạng suy thoái.

Người dân thường phải chịu nhiều thiệt hại. Mức thất nghiệp bình quân trong khốicác nền kinh tế phát triển OECD đã lên tới 9%. Ở Mỹ, nơi cuộc khủng hoảng bắtđầu sớm nhất, tỉ lệ thất nghiệp tăng gấp đôi, lên 10%. Ở một số nơi khác, thànhquả xóa đói giảm nghèo đạt được trong nhiều năm đã bị đảo ngược vì những ngườinghèo nhất cũng là những người bị tác động kép: thu nhập suy giảm trong khi giáthực phẩm tăng cao.

Nhưng nhờ vào tính chất bền bỉ của các nền kinh tế lớn và đông dân như TrungQuốc, Ấn Độ và Indonesia, thế giới đang phát triển nhìn chung đã không bị táchại nặng hơn vụ suy thoái đầu thập niên 1990. Đối với nhiều người trên hànhtinh, cuộc “Đại Suy thoái” đã không quá nghiêm trọng.

Thành quả đó không phải tự dưng mà có. Đó là kết quả của cuộc phản ứng lớn nhất,rộng nhất và nhanh nhất trong lịch sử của các chính phủ. Những ngân hàng bị chaođảo được “bao bọc” trong những gói cứu nguy nhiều tỉ USD từ ngân sách và tiềnbảo hiểm.

Các ngân hàng trung ương theo nhau giảm lãi suất; những ngân hàng lớn nhất nhanhchóng củng cố bảng cân đối tài sản. Các chính phủ khắp thế giới hồ hởi ban hànhhàng loạt biện pháp kích thích kinh tế. Sự tích cực phi thường này đã giúp ngănchặn cơn hoảng loạn, vực dậy hệ thống tài chính và chống lại sự sụp đổ nhu cầutiêu thụ.

Có khá nhiều tin tốt lành như vậy. Nhưng tin xấu là sự ổn định ngày hôm nay, tuyrất đáng hoan nghênh, vẫn mong manh một cách đáng ngại, cả vì nhu cầu tiêu thụtoàn cầu hiện phụ thuộc vào sự hỗ trợ của các chính phủ, và sự hào phóng củacông chúng đang che giấu nhiều vấn đề cũ có tính chất bấp bênh. Giá bất động sảnở nhiều nơi vẫn giảm chứ không tăng và áp lực lên ngành ngân hàng vẫn còn rấtnặng nề.

Kinh tế thế giới 2010: Mong manh trong ổn định 

Theo tuần báo The Economist, năm 2010 có thể gọi là cuộc “Đại Ổn định”

Những dấu hiệu rõ ràng của thànhcông, chẳng hạn các ngân hàng lớn của Mỹ đã hoàn trả tiền ngân sách sớm hơn dựđịnh, đang khiến nhiều người dễ dàng quên rằng cuộc phục hồi kinh tế vẫn đangdựa trên sự hỗ trợ của chính phủ. Loại bỏ những ảnh hưởng tạm thời do việc cácdoanh nghiệp tái lập kho hàng dự trữ, thì phần lớn sự phục hồi nhu cầu tiêu thụtoàn cầu là nhờ vào các dự án chi tiêu công, từ làn sóng đầu tư do chính phủthúc đẩy ở Trung Quốc đến việc chi tiêu do kích cầu gây ra ở Mỹ.

Ở các nền kinh tế đang phát triển lớn, sự phục hồi đã tăng tốc, trong khi ở thếgiới giàu có, mọi nỗ lực dường như chỉ để ngăn không cho nền kinh tế rơi vào suythoái trở lại.

Sự khác biệt này sẽ còn tồn tại lâu dài. Nhu cầu của thế giới giàu có vẫn sẽ yếuớt, nhất là ở các nước mà ngườidân lâm vào cảnh nợ nần và hệ thống ngân hàng bịsụp đổ. Ở nước Mỹ chẳng hạn, tỷ lệ nợ phải trả trong tổng thu nhập của các hộgia đình mới chỉ giảm một chút so với đỉnh điểm và vẫn còn cao hơn mức một thậpniên về trước khoảng 30%. 

Tỷ lệ này còn ít biến động hơn trong các gia đình Anh và Tây Ban Nha. Vì thế,rất nhiều khả năng tiêu dùng tư nhân sẽ trì trệ kéo dài. Và khi gánh nặng nợ nầntăng lên, chính phủ các nước giàu sẽ thấy ngày càng khó vay thêm tiền để bù đắplại sự sụt giảm chi tiêu tư nhân. Sự trái ngược giữa các nước giàu với các nềnkinh tế đang phát triển được điều hành tốt hơn sẽ ngày càng sâu sắc. 

Các nhà đầu tư đã lo ngại về khả năng phá sản của Hy Lạp, nhưng các thành viênkhác của khu vực đồng euro cũng đang trong tình trạng nguy hiểm. Ngay đến Anh vàMỹ cũng có thể phải đối mặt với chi phí vay mượn cao hơn. Các nền kinh tế đangphát triển cỡ lớn lại đương đầu với những vấn đề trái ngược: bóng ma bong bóngtài sản và những sự méo mó khác khi các chính phủ lựa chọn, hoặc bị buộc phảiduy trì các điều kiện tài chính quá lỏng lẻo trong một thời gian quá dài.

Do quy mô và cơ cấu của gói kích cầu, Trung Quốc đang rất lo ngại. Thanh khoảndư thừa một cách đáng ngại và việc chính phủ Trung Quốc từ chối đề nghị để chođồng Nhân dân tệ tăng giá đang cản trở công cuộc chuyển dịch nền kinh tế nướcnày về hướng tiêu thụ, thay vì chỉ dựa vào đầu tư và xuất khẩu.

Nhưng chính sách tiền tệ lỏng lẻoở các nước giàu cũng làm cho các nền kinh tế đang phát triển khó mà siết chặtcác điều kiện tài chính ngay cả khi họ muốn làm như vậy, bởi vì điều đó sẽ khơidậy dòng tiền nóng mang tính chất đầu cơ. 

Kinh tế thế giới có chuyển biến suôn sẻ từ cuộc Đại Ổn định hiện nay sang sựphục hồi bền vững trong năm tới hay không tùy thuộc vào việc xử lý tốt đến đâunhững thách thức và khác biệt đó. Do vậy, các nhà hoạch định chính sách đangphải vật lộn với những khó khăn kỹ thuật to lớn trong việc tìm kiếm những chiếnlược đúng đắn nhằm rút ra khỏi những biện pháp kích cầu.

Tệ hơn nữa, họ phải làm việc đó trong một bối cảnh chính trị ngày càng tối tăm.Như biện pháp đóng thuế lên tiền thưởng của giới ngân hàng ở Anh cho thấy, chínhsách tài chính ở các nước giàu có nguy cơ bị chi phối bởi sự phẫn nộ ngày càngtăng của công chúng đối với giới ngân hàng và các khoản cứu nguy. 

Ở Mỹ, tính độc lập của Ngân hàng trung ương (tức Cục Dự trữ liên bang Mỹ, FED)đang bị Quốc hội đe dọa. Và thời thất nghiệp cao có nghĩa là xung đột thương mạiđang biến thành một nguy cơ ngày càng lớn, nhất là đối với Trung Quốc. 

Cộng hết tất cả những điều nói trên, chúng ta có thể kỳ vọng điều gì trong nămtới? Những người bi quan dự báo đủ loại “sốc” trong năm 2010, từ những vụ khủnghoảng do các quốc gia không trả nợ nổi (như trường hợp có thể xảy ra cho HyLạp), cho đến chủ nghĩa bảo hộ thiếu thận trọng (chẳng hạn Mỹ dùng thuế suất caođể chống lại chính sách tỷ giá không công bằng của Trung Quốc). 

Có khả năng xảy ra nhiều hơn là hàng loạt vấn đề nhỏ hơn, từ sự gia tăng độtngột lợi tức trái phiếu (như ở Anh trước kỳ bầu cử), những quyết định tài chínhthiển cận (ví dụ áp thuế lên giao dịch tài chính), bãi công đòi không được giảmlương (như vụ đình công của nhân viên đội bay của British Airways dự định diễnra trong mùa Giáng sinh và Năm mới hiện nay)…

Một năm mới lại đến, cùng với những niềm hy vọng và những biến cố chưa biếttrước được.

TheoKinh tế thế giới 2010: Mong manh trong ổn định



Gửi bài tâm sự

File đính kèm
Hình ảnh
Words
  • Bạn đọc gửi câu chuyện thật của bản thân hoặc người mình biết nếu được cho phép, không sáng tác hoặc lấy từ nguồn khác và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về bản quyền của mình.
  • Nội dung về các vấn đề gia đình: vợ chồng, con cái, mẹ chồng-nàng dâu... TTOL bảo mật thông tin, biên tập nội dung nếu cần.
  • Bạn được: độc giả hoặc chuyên gia lắng nghe, tư vấn, tháo gỡ.
  • Mục này không có nhuận bút.