- Bạn đọc gửi câu chuyện thật của bản thân hoặc người mình biết nếu được cho phép, không sáng tác hoặc lấy từ nguồn khác và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về bản quyền của mình.
- Nội dung về các vấn đề gia đình: vợ chồng, con cái, mẹ chồng-nàng dâu... TTOL bảo mật thông tin, biên tập nội dung nếu cần.
- Bạn được: độc giả hoặc chuyên gia lắng nghe, tư vấn, tháo gỡ.
- Mục này không có nhuận bút.
Quả trám trị viêm họng, sâu răng, hóc xương cá
Quả trám là một loại quả dùng làm thực phẩm và có tác dụng chữa bệnh tốt. Theo y học cổ truyền, quả trám có vị chua, ngọt, chát, tính ấm, vào kinh phế, có tác dụng thanh nhiệt, sinh tân chỉ khát, giải độc, lợi hầu họng, không độc.
Quả trám là một loại quả dùng làm thực
phẩm và có tác dụng chữa bệnh tốt. Theo y học cổ truyền, quả trám có vị
chua, ngọt, chát, tính ấm, vào kinh phế, có tác dụng thanh nhiệt, sinh
tân chỉ khát, giải độc, lợi hầu họng, không độc.
Trám có nhiều loài khác nhau: trám trắng, trám đen, trám hồng. Quả trám còn gọi thanh quả hay cảm lãm (fructus canarii), được thu hái khi chín; có thể dùng tươi hoặc đem muối, sau đó phơi khô, hoặc sấy khô để chế các món ăn, có lợi cho hầu họng.
Thành phần hóa học, quả trám chứa protid, chất béo, hydrat cacbon, beta- caroten, acid oleannolic, một số khoáng chất: Ca, K, P, Fe, Mg, Mn, Zn, Cu... và vitamin C. Hạt quả trám chứa các acid béo.
Theo y học cổ truyền, quả trám có vị chua, ngọt, chát, tính ấm, vào kinh phế, có tác dụng thanh nhiệt, sinh tân chỉ khát, giải độc, lợi hầu họng, không độc. Được dùng trị các bệnh về hầu họng sưng đau, ho nhiều đờm, viêm ruột, lỵ, tiêu chảy, khát nước. Quả xanh có tác dụng giải độc. Quả chín có tác dụng an thần, trị động kinh. Ngày dùng 6 - 12g, dưới dạng nhai nuốt nước, hoặc dạng nước sắc.
Một số cách trị bệnh từ quả trám:
Trị đau họng, sưng amidan, ho, miệng khô, khát nước:
Quả trám rửa sạch, bỏ hạt, nấu với nước, nấu 2 - 3 lần, mỗi lần đun sôi 1 giờ, để lắng, gạn bỏ cặn, lọc qua vải xô, cô thành cao 2:1, thêm đường đủ ngọt, ngày uống 2-3 lần trước bữa ăn, mỗi lần 5-10ml. Có thể uống nhiều ngày liền cho đến khi hết các triệu chứng.
Trị lỵ:
Quả trám tươi khoảng 90g, để nguyên hạt sắc với nước (2 - 3 lần), gộp dịch chiết, cô lại lấy cao, theo tỷ lệ 1:1, chia 3 lần uống trong ngày trước bữa ăn. Khi uống cần kiêng ăn các thứ tanh: cua, cá, lòng trắng trứng... Có thể uống nhiều ngày cho tới khi hết các triệu chứng.
Trị đau nhức xương khớp:
Vỏ trám hồng, cạo bỏ lớp bần bên ngoài, thái nhỏ, sắc nước uống, ngày 10 - 12g, chia 3 lần sau bữa ăn. Có thể thay vỏ bằng lá trám.
Trị đau răng, sâu răng:
Quả trám đốt thành than, tán bột mịn, trộn với một ít xạ hương, rồi bôi và xỉa vào chỗ răng đau. Hoặc lấy vỏ thân cây trám trắng cạo bỏ lớp vỏ đen bên ngoài, thái mỏng phơi khô, sắc lấy nước, ngậm 10 phút rồi nhổ đi. Ngày làm nhiều lần. Có thể phối hợp với rễ chanh, rễ cây trẩu hoặc rễ cà dại.
Trị lở sơn:
Vỏ cây trám, cạo bỏ lớp bần, thái nhỏ, nấu nước tắm, ngày 2 lần.
Trị tràng nhạc (loa lịch):
Hạt trám, hạt gấc, vỏ quả mướp đắng, đốt thành than, tán bột mịn, trộn đều với dầu thực vật hoặc mỡ lợn, bôi vào chỗ đau.
Trị nứt nẻ kẽ ngón và gót chân khi trời rét:
Hạt trám trắng đốt thành than, tán mịn, trộn đều với dầu thực vật, bôi vào chỗ đau.
Trị hóc xương cá:
Quả trám trắng hoặc trám đen, nhai giập nuốt dần lấy nước; hoặc lấy 5 quả trám, sắc lấy nước, ngậm và nuốt dần. Hoặc chỉ lấy phần thịt quả trám, giã nát, ép lấy nước, uống dần. Hoặc lấy hạt quả trám, đốt tồn tính, rễ cây đậu ván trắng, thái nhỏ. Cả hai tán thành bột mịn, trộn đều, mỗi lần uống 4 - 6g. Tuy nhiên, cách làm này chỉ áp dụng với trường hợp bị hóc các xương cá nhỏ.
Trám có nhiều loài khác nhau: trám trắng, trám đen, trám hồng. Quả trám còn gọi thanh quả hay cảm lãm (fructus canarii), được thu hái khi chín; có thể dùng tươi hoặc đem muối, sau đó phơi khô, hoặc sấy khô để chế các món ăn, có lợi cho hầu họng.
Thành phần hóa học, quả trám chứa protid, chất béo, hydrat cacbon, beta- caroten, acid oleannolic, một số khoáng chất: Ca, K, P, Fe, Mg, Mn, Zn, Cu... và vitamin C. Hạt quả trám chứa các acid béo.
Theo y học cổ truyền, quả trám có vị chua, ngọt, chát, tính ấm, vào kinh phế, có tác dụng thanh nhiệt, sinh tân chỉ khát, giải độc, lợi hầu họng, không độc. Được dùng trị các bệnh về hầu họng sưng đau, ho nhiều đờm, viêm ruột, lỵ, tiêu chảy, khát nước. Quả xanh có tác dụng giải độc. Quả chín có tác dụng an thần, trị động kinh. Ngày dùng 6 - 12g, dưới dạng nhai nuốt nước, hoặc dạng nước sắc.
Một số cách trị bệnh từ quả trám:
Quả trám rửa sạch, bỏ hạt, nấu với nước, nấu 2 - 3 lần, mỗi lần đun sôi 1 giờ, để lắng, gạn bỏ cặn, lọc qua vải xô, cô thành cao 2:1, thêm đường đủ ngọt, ngày uống 2-3 lần trước bữa ăn, mỗi lần 5-10ml. Có thể uống nhiều ngày liền cho đến khi hết các triệu chứng.
Trị lỵ:
Quả trám tươi khoảng 90g, để nguyên hạt sắc với nước (2 - 3 lần), gộp dịch chiết, cô lại lấy cao, theo tỷ lệ 1:1, chia 3 lần uống trong ngày trước bữa ăn. Khi uống cần kiêng ăn các thứ tanh: cua, cá, lòng trắng trứng... Có thể uống nhiều ngày cho tới khi hết các triệu chứng.
Trị đau nhức xương khớp:
Vỏ trám hồng, cạo bỏ lớp bần bên ngoài, thái nhỏ, sắc nước uống, ngày 10 - 12g, chia 3 lần sau bữa ăn. Có thể thay vỏ bằng lá trám.
Trị đau răng, sâu răng:
Quả trám đốt thành than, tán bột mịn, trộn với một ít xạ hương, rồi bôi và xỉa vào chỗ răng đau. Hoặc lấy vỏ thân cây trám trắng cạo bỏ lớp vỏ đen bên ngoài, thái mỏng phơi khô, sắc lấy nước, ngậm 10 phút rồi nhổ đi. Ngày làm nhiều lần. Có thể phối hợp với rễ chanh, rễ cây trẩu hoặc rễ cà dại.
Trị lở sơn:
Vỏ cây trám, cạo bỏ lớp bần, thái nhỏ, nấu nước tắm, ngày 2 lần.
Trị tràng nhạc (loa lịch):
Hạt trám, hạt gấc, vỏ quả mướp đắng, đốt thành than, tán bột mịn, trộn đều với dầu thực vật hoặc mỡ lợn, bôi vào chỗ đau.
Trị nứt nẻ kẽ ngón và gót chân khi trời rét:
Hạt trám trắng đốt thành than, tán mịn, trộn đều với dầu thực vật, bôi vào chỗ đau.
Trị hóc xương cá:
Quả trám trắng hoặc trám đen, nhai giập nuốt dần lấy nước; hoặc lấy 5 quả trám, sắc lấy nước, ngậm và nuốt dần. Hoặc chỉ lấy phần thịt quả trám, giã nát, ép lấy nước, uống dần. Hoặc lấy hạt quả trám, đốt tồn tính, rễ cây đậu ván trắng, thái nhỏ. Cả hai tán thành bột mịn, trộn đều, mỗi lần uống 4 - 6g. Tuy nhiên, cách làm này chỉ áp dụng với trường hợp bị hóc các xương cá nhỏ.
Theo SKĐS
-
Sức khỏe2 giờ trướcThực phẩm bổ sung không phải là thuốc chữa bách bệnh, nhưng khi dùng cùng với chế độ ăn uống lành mạnh, chúng có thể tạo ra sự khác biệt, kể cả chuyện kéo dài tuổi thọ.
-
Sức khỏe6 giờ trướcQuả sung nhỏ bé thường được dùng ăn kèm hoặc pha nước chấm, nhưng lại đem đến những lợi ích bất ngờ cho sức khỏe của bạn.
-
Sức khỏe12 giờ trướcNgười đàn ông có tên Từ Ngôn (Trung Quốc) nhập viện điều trị liệt nửa người, khó nói và được chẩn đoán mắc đột quỵ cấp.
-
Sức khỏe13 giờ trướcÍt ai ngờ rằng loại rau dân dã, giá rẻ thường xuất hiện trong bữa cơm của người Việt như cải cúc lại có nhiều lợi ích sức khỏe đến thế.
-
Sức khỏe1 ngày trướcBốn năm trước, bệnh nhân bắt đầu bị cơn động kinh nặng, sau đó là yếu một bên chân tay và đi không vững...
-
Sức khỏe1 ngày trướcĐổ mồ hôi không đơn giản là do nóng hay “cơ địa”. Đôi khi, đó là những dấu hiệu bệnh tật mà nếu bỏ qua bạn sẽ rất hối hận.
-
Sức khỏe2 ngày trướcNếu chúng ta ăn bì lợn đúng cách sẽ tận dụng được giá trị dinh dưỡng của loại thực phẩm này, giúp chống lão hóa, ung thư.
-
Sức khỏe2 ngày trướcĐang chơi cầu lông, anh T. ở Hà Nội đột ngột đau ngực, vài phút sau bị ngừng tim phổi, được sơ cứu rồi chuyển viện cấp cứu, anh tiếp tục ngừng tuần hoàn 2 lần.
-
Sức khỏe2 ngày trướcKhi tiếp xúc với nắng nóng quá lâu, cơ thể mất nước, nhiệt độ tăng lên dẫn tới tình trạng say nắng với biểu hiện chóng mặt, đau đầu, buồn nôn, rối loạn ý thức.
-
Sức khỏe3 ngày trướcToàn tỉnh TT-Huế ghi nhận có hơn 180 ca sốt xuất huyết tính từ đầu năm đến nay, trong đó có 1 trường hợp tử vong tại địa bàn tập trung nhiều ca bệnh là TP. Huế.
-
Sức khỏe3 ngày trướcThuốc nhỏ mắt là sản phẩm quen thuộc trong cuộc sống để bảo vệ sức khỏe nhưng dùng sai cách sẽ mang lại nhiều nguy hại.