Nhìn từ sự sụt giảm của CPI tháng 6/2012

Tổng cục Thống kê vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước tháng 62012 đãgiảm 0,26% so với tháng trước, sau 38 tháng tăng liên tục. “Giảm phát” là từđược nhiều kênh thông tin nhấn mạnh.

Tổng cục Thống kê vừa công bố chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước tháng 6/2012 đãgiảm 0,26% so với tháng trước, sau 38 tháng tăng liên tục. “Giảm phát” là từđược nhiều kênh thông tin nhấn mạnh.

Nhìn từ sự sụt giảm của CPI tháng 6/2012
TS. Quách Mạnh Hào: “Tôi không nghĩ rằng với một đất nước ưa thích tăng trưởng như Việt Nam thì việc giảm phát lại có thể diễn ra quá dài”.

Trao đổi với PV, TS.Quách Mạnh Hào, Phó tổng giám đốc Công ty Chứng khoán MB (MBS), đưa ramột góc nhìn xoay quanh diễn biến này.

Sai lầm thường lặp lại từ tâm lý sợ


Ở cách hiểu chung, giảm phát là trái ngược với lạm phát. Theo ông,cần hiểu cụ thể như thế nào về giảm phát và gắn với thực tế CPI tháng 6này -0,26% như vậy?

Hiểu đơn giản thì giảm phát là sự sụt giảm mức giá cả hàng hóa chungtrong nền kinh tế. Khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) ở mức âm, ta có thểgọi đó là giảm phát. Tuy nhiên, để khẳng định rằng chúng ta đang trongthời kỳ giảm phát, thì chúng ta cần nhìn thấy CPI hàng tháng âm liên tụctrong vài tháng.

Tôi không chắc là chỉ số CPI các tháng sau có âm hay không, nhưng chắcsẽ rất thấp và chỉ số lạm phát sẽ tiếp tục giảm mạnh. Chỉ số CPI tháng 6so với cùng kỳ năm trước tăng 6,9% và tôi nghĩ rằng chỉ số này sẽ tiếptục giảm chủ yếu do mặt bằng giá năm trước ở mức cao, dự kiến thấp nhấtvào khoảng tháng 9 - 10 trước khi tăng nhẹ trở lại vào cuối năm theo chukỳ chính sách. Kết thúc năm tôi nghĩ rằng lạm phát sẽ vào khoảng 6 - 7%.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến giảm phát là tổng cầu giảm. Ôngnhìn nhận thế nào về các yếu tố tác động đến tổng cầu trong thời gianqua?

Về lý thuyết, giảm phát có thể do bốn nguyên nhân: sụt giảm cungtiền/tín dụng; tăng sản lượng chung; sụt giảm tổng cầu; và tăng cầutiền. Các nhân tố này thực ra có quan hệ khăng khít với nhau. Chẳng hạnnhư bạn nói, giảm tổng cầu là nhân tố quan trọng nhưng giảm tổng cầuthực chất lại là hệ quả của việc thắt chặt tiền tệ bởi điều này làm chomặt bằng lãi suất cao, cầu tiêu dùng và cầu đầu tư chung trong nền kinhtế giảm xuống.

Tất nhiên chúng ta cũng cần phải lưu ý là trong thời gian qua chúng tađã theo đuổi mục tiêu kiềm chế lạm phát và việc tác động giảm tổng cầulà giải pháp được chọn. Nhưng cũng cần nhấn mạnh là việc đẩy mặt bằnglãi suất lên quá cao là một chiến lược tồi bởi điều đó không còn là tácđộng giảm cầu, mà là cắt cầu.

Tôi nghĩ rằng ngoài những vấn đề thuần túy kinh tế như vậy, yếu tố tâmlý cũng đóng vai trò quan trọng. Sợ lạm phát quá mức dẫn tới thắt chặtquá mức. Và bây giờ, nếu chúng ta sợ giảm phát, suy thoái quá mức thìchúng ta có thể sẽ lại mở rộng quá mức. Sai lầm thường lặp lại từ tâm lýsợ.

Liên quan đến chính sách tiền tệ, như ông đề cập, việc thắt chặt vớilãi suất quá cao trong hơn một năm qua cùng với tăng trưởng tín dụng âmkéo dài vừa qua theo ông nên đánh giá cụ thể hơn như thế nào?

Như đã nói ở trên, đó là lý do chính tạo ra hiện tượng giảm phát nhưhiện tại. Chúng ta vừa trải qua giai đoạn lạm phát cao, nhưng rõ ràng làchúng ta cũng không vui gì với tình hình hiện nay.

Các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin 70% doanh nghiệp thua lỗtrong quý 1, gần 22,000 doanh nghiệp đã giải thể, GDP quý 1 chỉ tăng 4%và đương nhiên là đi kèm với đó là các vấn đề xã hội như thất nghiệp,thu nhập giảm, vỡ nợ…

Mỗi người có quan điểm khác nhau, nhưng cá nhân tôi cho rằng chúng ta đãcố gắng giải bài toán lạm phát bằng một công cụ rất truyền thống là thắtchặt tiền tệ, đẩy mặt bằng lãi suất lên cao để rồi công cụ này đưa chúngta tới bài toán thậm chí còn khó giải hơn là nợ xấu, thất nghiệp và đìnhtrệ.

Với Việt Nam, giảm phát khó kéo dài

Với hiện tại và trong thời gian tới, nếu có giảm phát kéo dài còn cóthể nguy hiểm hơn cả lạm phát cao. Còn theo ông thì sao?

Thực ra lạm phát và giảm phát có những mối nguy hại riêng của nó. Lạmphát làm bào mòn của cải xã hội nhanh trong khi giảm phát thường có xuhướng gắn liền với đình trệ và thất nghiệp. Về lý thuyết, nói giảm phátkéo dài nguy hiểm bởi khi đó vòng luẩn quẩn giảm phát hoàn toàn có thểdiễn ra theo chiều hướng sau: giảm tổng cầu dẫn đến giảm giá cả chung,dẫn đến nợ xấu tăng lên, gây vỡ nợ, đến thất nghiệp/giảm thu nhập dẫnđến giảm tổng cầu.

Tất nhiên tôi không nghĩ rằng với một đất nước ưa thích tăng trưởng nhưViệt Nam thì việc giảm phát lại có thể diễn ra quá dài.

Về lý thuyết, chống giảm phát thường gắn với việc mở rộng tiền tệ.Còn từ tình hình hiện nay, ông đặt ra tình huống nào của chính sách?

Việc mở rộng tiền tệ là giải pháp thường thấy khi giảm phát xảy ra, cũngtượng tự nhưng ngược lại với trường hợp lạm phát. Tuy nhiên, vấn đề làchúng ta không thể vận dụng nguyên tắc đó một cách máy móc bởi các lýthuyết kinh tế mang tính thời điểm và hoàn cảnh.

Trong kinh tế học hôm nay bạn có thể đoạt giải Nobel cho một ý tưởngsáng tạo nhưng mười năm sau người khác có thể cũng sẽ đoạt giải Nobelcho một ý tưởng ngược hoàn toàn với ý tưởng của bạn.

Tôi nhớ là hơn một năm trước khi lạm phát mới có dấu hiệu trở lại, bạncũng đã hỏi tôi và tôi đã đặt ngược lại nghi ngờ rằng thắt chặt tiền tệvà mặt bằng lãi suất cao - điều thường thấy - liệu có chống được lạmphát hay không. Khi đó tôi đã e ngại viễn cảnh về lạm phát đình đốn vàsau đó là nỗi lo giảm phát.

Và bây giờ, trong một tâm trạng tương tự, tôi e ngại rằng những giảipháp mở rộng tiền tệ quá nhanh và quá mức sẽ đẩy nền kinh tế vào tìnhtrạng có quá nhiều tiền rẻ và một chu kỳ bong bóng tài sản và lạm phátmới sẽ xuất hiện nhanh hơn mong đợi. Khi có nhiều tiền rẻ, bạn sẽ lạiđưa ra các quyết định rủi ro và vòng luẩn quẩn lặp lại.

Trong điều kiện hiện tại, tôi nghĩ nên theo đuổi các chính sách thuầntúy thị trường hơn là nghĩ về các giải pháp cứu, mở rộng hay kích thích.

Lãi suất cho vay 11 - 14% là hợp lý

Giả sử có một sự mở rộng tiền tệ, hay một sự kích thích, vẫn có longại là nếu kiểm soát không tốt, mở rộng và kích thích không hợp lý cóthể dẫn tới lạm phát cao trở lại…?

Vâng, tất nhiên cái gì không kiểm soát tốt và không hợp lý thì đươngnhiên sẽ xấu, trừ khi bạn may mắn. Tuy nhiên, có một vấn đề mấu chốt ởđây mà cá nhân tôi luôn muốn nhấn mạnh, đó là mặt bằng lãi suất là nhântố quan trọng quyết định sự hợp lý của các chính sách tiền tệ. Trướcđây, khi mặt bằng lãi suất ở mức cao, việc thắt chặt tiền tệ đẩy mặtbằng lãi suất lên cao hơn sẽ dẫn tới tình trạng chỉ có những doanhnghiệp rủi ro cao vay làm liều, các doanh nghiệp tốt không thể vay. Hệquả là đình trệ và nợ xấu gia tăng. Chính sách kiểm soát lạm phát bằngthắt chặt tiền tệ trong điều kiện mặt bằng lãi suất cao là đạt mục tiêunhưng không hiệu quả.

Ngược lại, nếu chính sách tiền tệ mở rộng dẫn tới mặt bằng lãi suất giảmtới mức thấp hơn và khuyến khích các hành vi đầu tư thiếu suy nghĩ thìđiều này lại tất yếu dẫn tới hiệu quả đầu tư kém, bong bóng tài sản vàsau đó là lạm phát trở lại. Điều này là do khi đó năng lực sản xuất củanền kinh tế không kịp đáp ứng với sự gia tăng của cung tiền.

Trong hoàn cảnh nền kinh tế Việt Nam, tôi đã có những nghiên cứu và xinđược nhắc lại là tôi cho rằng mức lãi suất cho vay doanh nghiệp hợp lýnên nằm trong khoảng 11-14%/năm. Cao hơn hoặc thấp hơn mức này sẽ dẫntới những nguy cơ như tôi đề cập ở trên.

Hiện tại, trần lãi suất huy động đã được đưa về 9%/năm nhưng lãi suấtcho vay vẫn ở mức cao. Do vậy, có thể nói chúng ta còn khoảng trống đểmở rộng tiền tệ, sao cho mức lãi suất cho vay 11-14%/năm là có thể tiếpcận được bởi các doanh nghiệp. Tôi tin rằng thị trường sẽ vận động vềmức này và nhiệm vụ của chính sách tiền tệ là tác động để hướng tới vàduy trì ổn định trong vùng đó, thay vì phải nghĩ tới việc cứu trợ haykích thích.
 



Gửi bài tâm sự

File đính kèm
Hình ảnh
Words
  • Bạn đọc gửi câu chuyện thật của bản thân hoặc người mình biết nếu được cho phép, không sáng tác hoặc lấy từ nguồn khác và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về bản quyền của mình.
  • Nội dung về các vấn đề gia đình: vợ chồng, con cái, mẹ chồng-nàng dâu... TTOL bảo mật thông tin, biên tập nội dung nếu cần.
  • Bạn được: độc giả hoặc chuyên gia lắng nghe, tư vấn, tháo gỡ.
  • Mục này không có nhuận bút.