Rau khúc vị thuốc quý trong những ngày xuân

Rau khúc là một loài rau dại.Hằng năm, cứ tới mùa xuân, cây lại xuất hiện,  mọc lên khắp nơi,  thường hay gặpnhất ở trên các bãi hoang, bờ ruộng, bờ cát ven sông ...

Rau khúc là một loài rau dại.Hằng năm, cứ tới mùa xuân, cây lại xuất hiện,  mọc lên khắp nơi,  thường hay gặpnhất ở trên các bãi hoang, bờ ruộng, bờ cát ven sông ... 

Trong điều kiện thời tiết khí hậuở phía Bắc, rau khúc tốt tươi nhất trong những ngày gần tiết Thanh minh, nênthời xưa một số địa phương còn đặt cho cây cái  tên “Thanh minh thảo”.

Loài rau dại này có thể luộc hoặcnấu canh ăn như các thứ rau khác, nhưng chủ yếu được sử dụng để làm bánh khúc,nên dân gian mới được đặt tên là cây “Rau khúc”.

Bánh khúc, thực ra chỉ là nhữngnắm xôi, bên trong có nhân làm bằng lá rau khúc giã nhuyễn, hấp chín cùng nhânđậu xanh, thịt lợn, hạt tiêu...

Thế mà trong những ngày xuân ởphía Bắc, khi tiết trời vẫn còn giá lạnh, sáng sớm hay đêm khuya, có được chiếc bánh khúc nóng vào bụng, sẽ có cảm giác rất khoan khoái và ấm áp trong lòng.

Tiếng rao “Ai bánh khúc nóng ơ!”lúc đêm khuya suốt một thời gian dài từng là nét văn hóa đặc trưng của phố cổ HàNội. Còn hiện tại, tiếng rao đó chỉ còn là hoài niệm, thành nỗi nhớ của nhữngngười xa xứ lâu năm.

Rau khúc vị thuốc quý trong những ngày xuân
Cây rau khúc còn có tên là "khúc nếp", "thử khúc thảo"

Hiện tại, trên một số tuyếnphố Hà Nội, cũng có một số hàng chuyên bán bánh khúc; Được quảng cáo là bánhkhúc xịn, nhưng trên thực tế, có khi bánh được chế biến từ lá su hào hoặc lágì khác nữa, khó mà biết được.

Nay muốn có bánh khúc xịn thựcsự, chỉ còn cách tự đi ra ngoại thành thu hái hoặc ra chợ mua rau khúc về làm.

Cây rau khúc còn có tên là "khúcnếp", "thử khúc thảo", "thử nhĩ", "hoàng hoa bạch ngải", "phật nhĩ thảo", "thanhminh thảo", "hài nhi thảo" ...  Tên khoa học là Gnaphalium affine D. Don(Gnaphalium multiceps Wall.), thuộc họ Cúc (Asteraceae).

Rau khúc là loài cây thảo sốnghằng năm, thân mảnh, cao chừng 10-20cm, có lông trắng mềm. Lá thuôn hình dỉa, cómũi nhọn, với lông mịn trắng ở mặt dưới.

Cụm hoa hình bông hay hình chuỳmọc ở ngọn. Lá bắc thuôn hình trái xoan, hoa cái và hoa lưỡng tính rất nhiều.Tràng hoa  các mảnh có ba răng nhỏ, tràng hoa lưỡng tính phình to từ gốc đếnđỉnh.

Quả bế thuôn dài. Loài rau khúcnày mọc hoang dại ở các vùng nông thôn  khắp nước ta, nhiều nhất ở các tỉnh miềnBắc và miền Trung; thường gặp trên các ruộng khô, bờ ruộng, ven đường ... ; Cònthấy mọc ở Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Philippines và một số nước khác.

Để làm thuốc, thường hái lá hoặctoàn cây, tốt nhất vào lúc trước khi cây ra hoa hoặc tuy đã có hoa  nhưng chưanở. Dùng tươi tốt nhất, nhưng cũng có thể phơi khô để dùng dần.

Lưu ý: Ngoài loài mô tả ở  trên,trên thực tế rau khúc còn có nhiều biến loài (biến chủng). Cùng một thời gianvới loài khúc nếp nói trên, mùa xuân còn hay gặp loài  “rau khúc tẻ”, còn cótên  “rau khúc vàng”; Tên khoa học là  Gnaphalium luleo -album L., cũng thuộc họCúc. 

Rau khúc vị thuốc quý trong những ngày xuân
Rau khúc thường mọc ở bãi hoang hoặc bờ cát ven sông

Rau khúc tẻ cũng là cây mọchàng năm, nhưng thân thường mọc đơn, cao 30-70cm, màu trắng, phủ lông nhưbông. Lá mọc so le, nguyên, hình trái xoan ... .

Tới cuối xuân, đầu hè, lại xuấthiện một loài rau khúc khác, có tên là  “rau khúc nhiều thân”; tên khoa học làGnaphalium polycaulon Pers.; cũng thuộc họ Cúc.

Ngoài ra, tại một số địa phương(bãi cát trên bờ sông ở ngoại thành Hà Nội,  ở Sa Pa (tỉnh Lào Cai)...), từ mùahè còn có thể xuất hiện một loài khúc khác, gọi là = “rau khúc dưới trắng”, sáchthuốc Trung Quốc gọi đó là “rau khúc mùa thu (thu thử khúc thảo; Tên khoa họclà  Gnaphalium hypoleucum DC.; họ Cúc).

Rau khúc có nhiều biến loài,nhưng đều được sử làm thuốc với cùng tác dụng. Theo Đông y, rau khúc có vị ngọt,tính bình; Vào 3 kinh Phế, Tỳ và Vị. Có công dụng khư phong  tán hàn, hóa đàmchỉ khái, lợi thấp, giải độc.

Dùng chữa cảm mạo phong hàn, honhiều đờm, khí suyễn, phúc tả, bạch đới, tỳ hư thủy thũng, còn dùng chữa nhiễmđộc đậu tằm, phong thấp đau nhức;

Dùng ngoài chữa lở ngứa ngoài da,phong chẩn mẩn tịt, mụn nhọt sưng đau. Trong dân gian, ngoài công dụng làm bánhkhúc ăn, thường dùng lá khúc để chữa ho, viêm chi phế quản.

Kết quả nghiên cứu hiện đại chothấy, trong rau khúc có chứa nhiều hợp chất thiên nhiên có lợi đối với sức khỏe.Toàn cây còn chứa tinh dầu (khoảng 0,05%), nên dùng cây tươi là tốt nhất; Để bảoquản tinh dầu, khi sắc nên để nước sôi rồi mới cho rau vào, sôi lại nhắc ra vàdùng ngay.

- Liều dùng: Ngày dùng 10-16gdưới dạng thuốc sắc hay thuốc hãm. Có thể thái nhỏ cho vào một ít đường, hấptrên nồi cơm cho uống.

Rau khúc vị thuốc quý trong những ngày xuân

Một số bài thuốc dùng raukhúc

- Chữa cảm lạnh phát sốt, ho:Dùng toàn cây rau khúc khô 15-20g (hoặc 30-40g tươi), sắc nước uống trong ngày;Có thể thêm tía tô, kinh giới, mỗi thứ 9g, cùng sắc uống.

- Chữa cảm nắng, phát sốt, ho:Dùng rau khúc khô 30g, thanh cao 15g, bạc hà 9g, sắc nước uống trong ngày.

- Chữa viêm họng, hen suyễnnghẹt đờm: Dùng độc vị rau khúc khô 30g sắc uống; Hoặc thêm gừng, hành mỗivị 10g cùng sắc uống. Còn có thể  dùng: Rau khúc khô 30g, ma hoàng 6g, khoảnđông hoa, hạnh nhân, bạch tiền, mỗi thứ 9g, sắc uống.

- Chữa ho nhiều đờm: Dùngrau khúc khô 15-20g, đường phèn 15-20g,  sắc nước uống trong ngày.

- Chữa viêm khí quản mạn tính:Một bệnh viện ở Trung Quốc đã thử nghiệm sử dụng 50g rau khúc khô, sắc lấy nướcđặc, chia thành 3 lần uống trong ngày, liên tục 10 ngày (một liệu trình).

Điều trị 165 ca viêm khí quản mạntính đạt kết qủa tốt: sau 2 liệu trình tỷ lệ khỏi bệnh đạt 81%.

Một bệnh viện khác thử nghiệm sửdụng rau khúc phối hợp với xa tiền thảo và liên kiều chữa viêm khí quản mạn cũngđạt kết quả tốt (Theo “Trung dược đại từ điển”).

- Chữa cao huyết áp: Dùngrau khúc khô 12g, câu đằng 9g, tang ký sinh 9g, sắc nước uống trong ngày.

- Chữa đầy bụng, tiêu chảy:Dùng toàn cây rau khúc khô 30-60g, kê nội kim (màng mề gà) 1 cái, sắc nước uốngtrong ngày.

- Chữa khí hư bạch đới ở phụnữ: Dùng rau khúc 15g, phượng vĩ thảo (cỏ seo gà) 15g, đăng tâm thảo (cỏ bấcđèn)15g, cỏ  xước 12g sắc nước uống trong ngày; Lưu ý: Không dùng thuốc tronglúc đang hành kinh.

- Chữa đau nhức do thống phong(Gut - Guoty Arthiritis): Dùng lá và cành non cây rau khúc, rửa sạch, giãnát đắp vào chỗ đau sưng, băng cố định lại; Có tác dụng giảm đau khá tốt. 

- Chữa gân cốt sưng đau, chânvà đầu gối sưng thũng, đòn ngã tổn thương: Dùng toàn cây rau khúc khô30-60g, sắc nước uống trong ngày.

- Chữa ngộ độc đậu tằm(fabism): Dùng rau khúc khô 60g, xa tiền thảo 30g, phượng vĩ thảo (cỏ seogà) 30g, nhân trần 15g. Nước 1.200ml, sắc cạn còn 800ml, hòa thêm đường vào uốngthay trà trong ngày.

- Chữa vết thương sưng tấy,vết thương không liền miệng: Dùng toàn cây rau khúc khô 30g, sắc nước uốngtrong ngày; đồng thời giã lá rau khúc tươi trộn với cơm giã nát đắp lên vếtthương.

- Chữa nhọt đầu đinh mới mọc:Dùng lá rau khúc tươi trộn với cơm nguội và vài hạt muối đắp lên nhọt.

Theo Lương y Huyên Thảo
Rau khúc vị thuốc quý trong những ngày xuân



Gửi bài tâm sự

File đính kèm
Hình ảnh
Words
  • Bạn đọc gửi câu chuyện thật của bản thân hoặc người mình biết nếu được cho phép, không sáng tác hoặc lấy từ nguồn khác và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về bản quyền của mình.
  • Nội dung về các vấn đề gia đình: vợ chồng, con cái, mẹ chồng-nàng dâu... TTOL bảo mật thông tin, biên tập nội dung nếu cần.
  • Bạn được: độc giả hoặc chuyên gia lắng nghe, tư vấn, tháo gỡ.
  • Mục này không có nhuận bút.