1968 Ford Mustang Shelby GT500
Hai năm đầu của Caroll Shelby là sự khởi đầu cho các tín đồ của dòng Mustang về sau. Những chiếc GT350 đời 1965 và 1966 rất nhẹ, kiểu dáng đơn giản, và cực kỳ hữu dụng với độ bám cao. Nhưng sau đó, các xe đời 1967 và 1968 mang đến nhiều sự thú vị hơn cho các cuộc phiêu lưu và là cỗ máy mà bạn ao ước nếu muốn thắng các cuộc đua drag (chạy thẳng trong cự ly ngắn).
Lần đầu tiên, GT500 Shelby đời 67, 68 xuất hiện với 355 mã lực và 428 mã lực khối trên inch. Những người thử xe đã đạt được cước đua ngắn 1 phần 4 dặm với dưới 14 giây, một tốc độ đáng kể vào thời đó. Chiếc Shelby Mustang được cải tiến nhiều hơn với phong cách bóng bẩy hơn so với các xe trước đó để phù hợp với bước tiến mới của mã lực. Thậm chí chiếc KR (King of the Road) với tính năng cáo cũng được sản xuất vào năm 1968 bởi vì nó.
Chi tiết thú vị: Shelby Mustang 1967 sử dụng đèn đuôi chung với chiếc Mercury Cougar, nhưng Shelby đời 1968 lại dùng đèn của Ford Thunderbird đời 66.
1984 Chevy Corvette
Thế hệ thứ hai của dòng xe thể thao Mỹ, Corvette, có một cuộc chạy đua dài: từ 1968 tới 1982. Vì thế 1983 là thời điểm mà GM phải trình làng thế hệ kế tiếp C4 Corvette, với nhiều các giả thiết và mong chờ về chiếc xe. Một vài dự đoán sẽ dùng khung cho động cơ tầm trung, như các mẫu xe Ý. Ý kiến khác cho rằng nó sử dụng động cơ xoay vòng (rotary engine) giống Mazda.
Cuối cùng, thế hệ kế tiếp của Vette cũng không mất di căn bản vốn có của nó. Vẫn là động khung động cơ nhỏ V8 truyền động cầu sau. Năm đầu tiên của thế hệ mới này, động cơ đạt công suât gần 205 mã lực nhưng sau khi đổi sang động cơ mới với hệ thống chia nhiên liệu của những năm kế tiếp, tỷ số truyền lực nhảy vọt lên đáng kể . Năm năm sau đó, Chevy bắt đầu khởi động phiên bản siêu dẫn động đầu tiên của hãng kể từ thập niên 1960: ZR1 với 375 mã lực
Chi tiết thú vị: Không có sản phẩm Corvette nào được ra mắt
năm 1983. Mặc dù năm 1982 là năm cuối cùng để ra mắt thế hệ thứ ba nhưng
Chevy quyết định hoãn thêm một năm cho đến 1984 là năm chu kỳ của tất
cả dòng sản phẩm của hãng. Vì sao? Vài nguồn tin khẳng định việc hạn chế
lượng khí thải làm Chevy cần thêm thời gian phát triển lại động cơ. Vài
nguồn khác nói rằng chất lượng của vài chi tiết động cơ mới là vấn đề.
Tất cả những gì chúng ta biết là những mẫu sản phẩn Corvette 1983 đều
bị tiêu hủy, trừ một mẫu duy nhất: một chiếc Corvette màu trắng giờ
được đặt tại Bảo tàng quốc gia Vorvette ở Bowling Green.
1969 Dodge Charger Daytona
1969 Dodge Daytona và người an hem họ, 1970 Plymouth Superbird, được tranh luận là những mẫu xe thuần khiết nhất trong cuộc chiến xe cơ bắp. Nhưng Daytona, đúng với tên gọi của nó, không được thiết kế cho các cuộc đua đường phố. Nó được xây dựng để chiến thắng trên các đường đua Nascar của các đường đua siêu tốc- các cung đường dài nhất và nhanh nhất.
Để tăng thêm vận tốc tối đa, các kỹ sư đã mang Charger đến đường hầm gió. Các cải tiến khí động học dành cho con cưng của Dodge bao gồm đuôi cánh gió cao 2 feet (0,6 mét), đường cong ở cửa sổ sau, đầu xe dài hơn, mũi chúi hơn. Các kết quả cuối cùng thật ấn tượng. Phiên bản đua của Daytona trở thành chiếc xe đầu tiên trong lịch sử Nascar vượt tốc độ 200mph (320km/h). Sau rất nhiều chiến thắng của Dodge năm 1969 và một vài chiến thắng của Plymouth năm 1970, luật mới của Nascar đã phải cấm các xe này. Các xe được sản xuất, đi kèm với gói động cơ lốc máy to 440 hay huyền thoại 426 Hemi, được săn lùng bởi các nhà sưu tập xe ngày nay có thể đạt hơn 150000$ tại các buổi đấu giá.
Chi tiết thú vị: Cải tiến khí động học trên chiếc Daytona so
với các chiếc Charger thông thường ở điểm nó giảm lực cản kéo xuống
0,28- một mức chuẩn thậm chí theo các tiêu chí của ngày nay. Nhưng liệu
cái cánh gió đuôi to khủng ấy có cần thiết phải nhổng cao lên như thế để
giảm thiểu tối đa lực ấn đuôi? Về lý thuyế thì không. Lý do duy nhất
cho việc phải thật cao lên như thế là để các xe sản xuất để bán có thể
mở cốp hoàn toàn mà không vướng.
1970 Oldsmobile 442
Chiếc 442 (Tên gọi dựa trên bốn carburetor, hộp số 4 cấp, ống xả đôi) được dựng lên dựa theo chiếc Cutlass và trở thành cỗ máy cơ bắp hút hàng của phân nhánh Oldsmobile. Nó có cùng hình dáng với hai cỗ máy nóng bỏng khác của GM, chiếc Chevy Chevelle SS và Pontiac GTO. Và cũng như GTO, chiếc 442 chỉ là một sự ngăn nắp và gọn gang lúc bắt đầu. Nhưng vào 1970, bạn đã có thể mua một động cơ máy lớn V8 445-khối vuông. Và khi được lắp vào với các bộ phận thích hợp của W30, xe đạt 360 mã lực vơi hơn 500ft-lb lực mô men xoắn. Xe có thể đạt 100km/h chưa đầy 6 giây, một tốc độ đáng kể vào thời đó, đặt biệt hơn là ở các “Ông Cụ” (‘Olds’mobile).
Chi tiết thú vị: Diễn viên James Garner đã đua bằng một chiếc Olds 442 đời 1970 trong cuộc đua NORRA Mexico 1000 (tiền đề của các giải Baja 1000) và đạt giải nhì cùng phân khúc. Chiếc Goodyear Grabber, như các nó được nhắc đến được độ lại bởi huyền thoại xe đua giải Baja, ông Vic Hickey với sự tài trợ của hãng lốp Goodyear. Xe được lưu kho thời gian gần đây và chuẩn bị đấu giá.
1978 Pontiac Firebird Trans Am
Cuối thập thiên 70, xe cơ bắp dần bị chìm vào bóng tối của những huyền thoại trước đó. Luật kiểm soát hí thải mới nhất, kết hợp với nhiên liệu tăng và phí bảo hiểm làm chùn bước các nhà sản xuất tiếp tục với những cỗ máy mã lực.
Nhưng với Pontiac thì không. Chiếc Trans-Am đã tạo một cơn sóng từ công chúng khi nó xuất hiện trong bộ phim Smokey and the Bandit. Với năm sản xuất 1978, Pontiac đã thêm vào sự hứng thú bằng cách đẩy công suất Trans Am từ 200 lên 220 mã lực. Dòng xe cũng được phát triển với gói điều khiển đặc biệt mang tên WS6 với phuộc thể thao, bánh xe bản 8 inch rộng hơn, vỏ mới, và rẽ nhanh hơn. Kết quả là Pontiac thậm chí làm chủ tay lái còn tốt hơn so với Chevy Corvette.
Chi tiết thú vị: mui xe T của Pontiac, lúc đầu tiên được
thiết kế có thể chọn lựa vào 1976 khiến người mua tiếp cận dễ hơn với
chiếc Pontiac mui trần. Phân mục mui xe có thể tháo rời được làm chủ ý
bởi ông Hurst và vì thế còn được gọi là Hurst Hatch. Vấn đề là mui T top
của GM lắp vào Pontiac bị rỉ, điều này khiến Pontiac tự thiết kế riêng
mui T top dành cho Trans Am ở ngay chính khu vực làm đồng của chung của
GM và tung ra mẫu mui mềm vào 1978. Vì thế mà một số mẫu Firebird có mui
xe T của Hurst trong khi một số khác thì mui của GM. Bạn có thể nhận
biết sự khác biệt ở tấm kính trên mui.
1969 Ford Mustang Boss 429
Cuối thập niên 60 đầu 70, Giải Nascar đang ở đỉnh cao hoàng kim. Các nhà sản xuất kinh doanh xe chạy đua một cách nghiêm túc, động cơ với khung sườn dành cho xe đua thường đi quá xa so với các xe dân dụng. Điều mà các nhà sản xuất cần là bán 500 chiếc xe cơ bản và họ có thể đem nó tham dự giải Nascar.
Và trường hợp tiêu biểu là mãnh thú Boss 429 Mustang. Động cơ V8 429 khối vuông sản sinh 375 mã lực đạt vòng tua đến 6000. Nó là mẫu xe được sản xuất chỉ dành cho giải Nascar. Hiện tại, để sở hữu một chiếc Boss 429 Mustang bạn phải tìm kiếm ở các buổi đấu giá và chuẩn bị ít nhất 200.000$.
Chi tiết thú vị: Có sự khác biệt về động cơ của Boss 429 đời
1969 và 1979. Mã “S-code”(S-Code) đặt vào các xe đầu tiên là các bộ phận
dành cho xe dùng để đua. Việc này xảy ra do một bước sai trong chu
trình lắp ráp. Và vì thế sẽ có một số xe mang ký hiệu “T-code” sản xuất
sau đó. Sau đó là phiên bản có ký hiệu “A-code” của dòng 429, lắp đặt
với sự thay đổi van mới cho đến khi ngừng sản xuất dòng xe này.
1970 Chevy Chevelle LS6
Khi GM tìm ra lối thoát sau luật cấm các động cơ to hơn 400 khối vuông cho phép sử dụng trên xe tầm trung, hãng đặt dấu chấm hết cho dòng xe cơ bắp trên tất cả các phân nhánh của hãng. Oldsmobile đặt động cơ khổng lồ 455 khối vuông vào 442, và Chevy đặt động cơ 454 khối vuông V8, mẫu động cơ LS6, vào chiếc Chevelle SS.
Các trao đổi ước tính sức mạnh của LS6 có thể đạt 450 mã lực và 500 lực mô men xoắn. Nhưng nhờ tỉ số nén cao 11.25:1 và khoang chứa khổng lồ Holly 780 CFM, lực đầu ra thật sự của LS6 Chevelle SS đạt gần 500 mã lực, theo khẳng định của các chuyên gia. Theo tạp chí Car and Driver trong một lần thử xe vào 1970, xe chạy từ 0 lên 100km/h chỉ trong 5,4 giây; chạy 1 phần 4 dặm trong 13,8 giây. Và chiếc xe được cho là xe mạnh nhất trong dòng xe cơ bắp.
Chi tiết thú vị: Chevrolet Corvette luôn là dòng xe tiên tiến nhất của Chevy. Cho tới tận thời của LS6, GM không cho phép bất cứ chiếc Chevy nào khác đạt mã lực cao hơn Corvette. Ở trên đỉnh cao một thời gian dài GM định ra mắt LS7 với 465 mã lực, nhưng thực tế chiếc xe chưa bao giờ chính thức ra thị trường. Vậy nên đó là lí do LS6 là xe mạnh nhất trong dòng cơ bắp
1969 Pontiac GTO Judge
Potiac được nhìn nhận với tư cách là một phần tạo nên xe cơ bắp từ đầu thập niên 1960. Thật vậy, vào năm 1964 chiếc Pontiac GTO được công chúng đón nhận như một hình mẫu đầu tiên cho dòng cơ bắp của hãng này. Đến 1968, có quá nhiều sự cạnh tranh đến với GTO, nội bộ Pontiac xuất hiện ý tưởng một phiên bản rẻ hơn của GTO mang động cơ nhỏ 350 khối vuông tên ET (elapsed time) cho cuộc đua dài kỳ này.
John Delorean, giám đốc Pontiac lúc bấy giờ, không thích ý tưởng này. Với ông, GTO không thể có động cơ nhỏ như thế. Thay vào đó, ông và đồng đội dựng một chiếc còn mạnh hơn GTO thông thường. DeLorean đã tự đặt tên cho xe là GTO Judge sau khi xem chương trình truyền hình mang tên “Rowan and Martin’s Laugh-in”. Chiếc GTO Judge đạt 360 mã lực từ động cơ chuẩn Ram Air III, nhưng khách hàng có thể chọn nâng cấp lên 370 mã lực với động cơ Ram Air IV. Hàng hiếm nhất phải kể đến GTO Judge Ram Air IV convertible- chỉ có 5 chiếc được sản xuất năm 1969.
Chi tiết thú vị: Chương trình quản cáo tivi cho chiếc Judge được diễn bởi ban nhạc rock Paul Revere và Raiders hát về xe GTO nằm giữ cái hồ khô. Theo sách Pontiac Pizazz, viết bởi Jim Wangers và Art Fitzpatrick , ca sĩ chính là Mark Lindsay là một người hâm mô Judge nên anh ta viết bài hát về xe này. Wangers còn khẳng định quảng cáo trên được xem là một trong các video rock đầu tiên dàng cho quảng cáo.
1969 COPO Camaro
Hệ thống Chevrolet's Central Office Production Order (COPO) được thiết kế để bán hàng thuận tiện; chủ đích nhằm xuất hàng các phuộc nhún tải cho các xe cảnh sát và lót trong mui cho xe taxi. Nhưng các trung tâm đại lý lớn mật thiết như Yenko Chevrolet ở Pennsylvania, đã nhận định ra rằng các xe Camaro cũng có thể được đặt hàng theo cách này. Và với quyền được dùng mã đặt hàng, đại lý đã tạo ra một con quái vật Camaro không nằm trong chủ ý của Chevy.
Đơn hàng 9561 ghi chi tiết 427 động cơ bản to V8 công suất 425 mã lực –giống như Vette (1 dòng xe Corvette). Nhưng thậm chí còn có một chiếc COPO 9560 còn hiếm hơn khi được yêu cầu làm hoàn toàn bằng aluminium ZL-1 427 V-8. Mặc dù chỉ mạnh hơn có 5 mã lực nhưng chiếc COPO độc này được rất nhiều người biết đến. Chỉ có 69 chiếc ZL-1 Camaro được sản xuất và các xe này được bán với giá đề xuất thấp nhất 400000$ tại các buổi đấu giá.
Chi tiết thú vị: động cơ aluminum ZL-1 427 V-8 trong chiếc
9560 COPO Camaro là động cơ cực kì hiếm và khó nhận biết bởi dự đinh của
Chevy đơn thuần chỉ là phát triển 427 động cơ cho đội đua Chaparral để
sử dụng dòng xe Can Am theo đơn hàng của đại lý. Không có ký hiệu gì bên
ngoai khiến cho bạn phân biệt sự khac biệt- ngoại trừ huy hiệu Camaro
thẳng màu vanilla.
1987 Buick GNX
Rất lâu sau thời kỳ động cơ máy to V8 cho xe cơ bắp thập niên 60-70, Buick mang lại một phần phép màu đó vào thập niên 80. Buick GNX, dựa trên Grand National (tự bản thân nó là phiên bản hot-rod của dòng Regal coupe), được lắp đặt động cơ nén khí V-6S (turbocharged V-6S) đã tạo ra một cỗ máy từ 245 lên thành 276 mã lực. Tạp chí Car and Driver đã thử xe vào 1987 và ghi nhận xe từ 0 lên 100km/h chỉ mất 4,6 giây, trở thành xe nhanh nhất trên thị trường lúc bấy giờ. Buick tạo ra 547 con quái vật đen này với nhiều chiếc hiện giờ đã lưu kho vĩnh viễn phục vụ các cuộc điều tra.
Chi tiết thú vị: Buick còn lại khá ít các động cơ như vậy khi
ngừng sản xuất GNX vì thế Pontiac đã lấy động cơ nén áp suât V-6S đưa
vào mẫu xe kỉ niệm 20 năm ngày thành lập, mẫu xe Trans Am 1989.
Theo Nguoiduatin