Lão Ngưu đã sáu mươi bảy tuổi, người rắn chắc, da ngăm đen. Mái tóc của lão hầu như đã bạc trắng, xen kẽ ít sợi hung hung đỏ vì cháy nắng. Đặc biệt, lão có đôi mắt sáng quắc như mắt rắn lục và đôi bàn tay chèo thuyền chắc như hai gọng kìm. Nhìn đôi bàn tay cuồn cuộn cơ bắp ấy, không ai dám bảo lão già.
Vợ lão là mụ Khất. Không ai biết tuổi, họ tên hay quê quán của mụ. Mụ tha hương từ bé. Do trước đây mụ làm hành khất nên mọi người gọi là Khất. Vợ chồng lão không có con, chẳng ai biết nguyên nhân do ai. Thế nhưng theo cái miệng sang sáng của lão Ngưu, lỗi tại mụ Khất. Mỗi khi có rượu trong người, lão lại gầm ghè:
- Mụ còn không bằng một con lợn. Con lợn một năm ba lứa. Còn mụ mấy chục năm tịt luôn, không đẻ được đứa nào.
Khổ cho cái dáng vóc lực điền, làm việc hùng hục như trâu, như bò của lão nhưng lại mang tiếng không có nổi mụn con. Có người còn trêu lão không có "cái ấy" của đàn ông. Tức khí, có lần lão đứng hẳn lên mũi thuyền vạch "cái ấy" của mình ra cho thiên hạ xem, để người ta khỏi nghi ngờ về thiên chức của lão. Dù muộn đường con cái, nhưng lão không bao giờ táy máy cô nọ, bà kia. Lão sợ bị mang tiếng với làng nước.
Tám năm trước, vợ chồng lão có đứa con nuôi, đó là bé Du. Lão nhặt được con bé trong một trận lũ. Nó nằm trên chiếc bè chuối và bị nước đánh dạt vào căn chòi của vợ chồng lão.
Gia đình lão sống trong căn chòi kiểu nhà sàn, cạnh bến sông Bài. Bên mép sông, người ta cắm những cái cọc tre xiêu vẹo trông như nêm. Sông Bài, con sông nhỏ của một huyện nửa đồng bằng nửa đồi núi, tuy nhỏ nhưng dòng nước xanh ngăn ngắt quanh năm. Hai bên bờ sông bạt ngàn hoa cúc dại vàng đến nhức mắt.
Nghề của lão Ngưu là chèo chiếc thuyền nan cũ từ đời cha để lại. Hàng ngày, lão đưa các bà, các cô đi chợ Diễm bên kia sông. Thỉnh thoảng, lão giăng lưới bắt cá đem bán, lấy tiền mua gạo.
Vợ chồng lão vỡ mấy khoảnh đất hoang ven bờ sông lấy đất trồng rau, vừa cho người vừa cho con lợn nái nuôi dưới sàn nhà. Mỗi năm, nó cho vài ba lứa lợn con.
Công việc chính của mụ Khất là chèo thuyền sang bờ bên kia sông vào mỗi đêm. Chỗ này là nơi "tập kết" rác thải của khu công nghiệp, các công trình xây dựng. Mụ qua đó nhặt nhạnh bất cứ thứ gì có thể bán được. Một phần nguồn sống của gia đình lão nhờ vào cái đống rác thải đấy.
Mỗi buổi tối, sau khi ăn cơm xong, mụ dỗ con bé ngủ rồi xách cái sọt đi nhặt phế liệu. Hồi rác mới "tập kết" về đây, rất ít người đến nhặt. Sau một đêm lượm lặt, mụ có thể kiếm được dăm ba cân gạo. Thế nhưng gần đây, bọn trẻ con ở làng trong ra nhặt đông quá. Nhiều đêm, mụ về tay không. Cuộc sống khốn khó, làm cái gì có thể kiếm ra đồng tiền bát gạo là người ta tranh nhau. Ban ngày, những lúc rảnh rỗi, mụ mua tre về đan rổ rá, đan rế đem ra chợ bán. Đôi bàn tay nhăn nheo của mụ cũng khéo ra trò. Đồ mụ vừa đan xong, người ta mua hết. Cuộc sống gia đình lão cứ thế qua ngày đoạn tháng.
Du tuy không phải con đẻ nhưng lại giống lão đến lạ, nhất là cái môi trề, không lẫn đi đâu được. Nhiều người bảo bé Du là con của lão với mụ Lăng bán cá bên chợ Diễm. Cái mụ xề ấy ở góc. Nhìn kỹ, bé Du cũng có nét giống mụ xề, nhất là ở mái tóc xoăn tít. Mỗi lần có người nói bóng gió như thế với lão, lão lại nói:
- Rõ vớ vẩn! Môi ai chẳng giống nhau. Cứ tóc xoăn là con của mụ Lăng chắc? Ăn nhiều thì cong môi, nắng đốt thì xoăn tóc. Sắt thép còn cong nữa là da thịt con người. Nếu thật thế cũng đã sao nào?
Mọi người quý lão ở tính cách thật thà, bộc trực, nghĩ gì nói nấy, chả kiêng nể một ai. Lão được cái nết tốt là sẵn sàng đem sức lực điền của mình ra giúp đỡ người khác. Lão chẳng cần người ta trả công cán gì nhiều, chỉ cần một chầu rượu là xong.
Bé Du đã tám tuổi nhưng hơi thấp bé, nhẹ cân so với chúng bạn. Trong khi lũ bạn cùng trang lứa đi học. Mụ Khất bảo ít hôm nữa sẽ cho con vào học trường ở bên kia sông. Thế nhưng ý định của mụ đã bị chồng gạt đi. Lão Ngưu bảo:
- Học với chả hành, vài năm nữa hẵng hay. Con gái lớn lên, lấy chồng, rồi đẻ... Nhà tao mấy đời có học hành gì đâu mà vẫn sống nhăn răng ra đây này.
Nghe chồng nói thế, mụ Khất chỉ biết im lặng. Ít khi mụ dám trái lời lão. Có một lần, lão thèm rượu vào lúc nửa đêm nên bảo vợ chèo thuyền sang bên kia sông mua một chai. Lúc đó, bé Du đang khóc ngằn ngặt nên mụ ngần ngừ.
Lão tiến đến gỡ con bé ra khỏi tay mụ và đặt nó xuống giường. Ngay sau đó, lão quay lại xốc gọn mụ lên như một con mèo và quăng tõm xuống sông.
Cũng may, mấy chục năm sống ở vùng sông nước nên mụ bơi rất giỏi. Cú ném của chồng chẳng làm mụ hề hấn gì.
Sau lần ấy, mỗi lời nói của lão đối với mụ là một mệnh lệnh. Lão là con trâu đực, còn mụ là con trâu cái. Mà con trâu cái như mụ lại chẳng sinh đẻ được nên không có quyền đòi hỏi lão bất kỳ thứ gì.
Kể ra, mụ còn sống đến ngày nay cũng nhờ có lão Ngưu ra tay nghĩa hiệp. Chính lão đã cứu mụ khỏi chết đói và nhận làm vợ dù không cưới hỏi. Đó là cái nợ mụ phải trả bằng cả phần đời còn lại.
Ngày ấy, anh chàng Ngưu hơn ba mươi tuổi. Dù có tướng tá lực lưỡng, khỏe mạnh nhưng anh không lấy nổi vợ. Người ta chê anh Ngưu này đã nghèo lại cù lần, ai bảo gì nghe nấy. Cô nào vô phước, lấy anh về chỉ khổ.
Vào một buổi chiều cuối đông ảm đạm, khi anh Ngưu đi thuyền về, bắt gặp mụ Khất nằm co quắp trong nhà mình. Ngưu giật mình làm mụ Khất cũng giật nảy theo.
Ngày ấy còn chiến tranh nên cuộc sống khó khăn, đói kém. Quê mụ Khất ở tận Thanh Hóa. Mụ sống trong ngôi làng được mệnh danh là "chó ăn đá gà ăn sỏi", quanh năm gió Lào cát trắng, mưa bão, lũ lụt.
Trong một trận lụt lớn, xóm làng tan tác, mỗi người một nơi. Hai mẹ con mụ bỏ làng, đi tha hương cầu thực, mong thoát cảnh chết đói. Thế nhưng, mẹ của mụ đã chết dọc đường vì đói rét và căn bệnh hen suyễn ủ sẵn trong người nhiều năm. Mụ nhờ có sức trẻ nên vẫn còn sống. Mụ cứ lê lết từ vùng này đến vùng khác. Mụ chẳng còn nhớ mình đã xa quê bao lâu rồi. Cho đến ngày mụ lê tấm thân xanh xao, vàng vọt đến vùng đất bán sơn địa heo hút này để rồi gặp Ngưu.
Thoạt đầu, anh thấy rờn rợn vì cứ tưởng mụ là con ma sống nằm co quắp trong nhà mình. Thế nhưng sau khi nghe mụ kể lại gia cảnh, Ngưu thấy thương thương, trông mụ quắt queo như con mèo già mấy tháng bị bỏ đói. Anh dìu người đàn bà xa lạ vào bếp, lấy cơm nguội cho ăn. Ban đầu mụ tỏ vẻ sợ sệt nhưng rồi đôi mắt hiền từ của Ngưu đã trấn an mụ.
Mụ ở lại nhà Ngưu vài hôm. Anh đi thuyền, mụ ở nhà cơm nước. Dần dần, lão hỏi thăm quê quán, gia đình rồi cho mụ mươi lon gạo, mấy hào bạc lẻ và bảo mụ tìm về quê hương, bản quán.
Nghe ân nhân nói vậy, mụ rưng rưng nước mắt quay đi. Thế nhưng, mới bước đi được mấy bước, mụ bỗng quay lại, quỳ sụp dưới chân anh khóc lóc. Mụ bảo gia đình tan tác, bố mẹ chết hết rồi không còn nơi đâu để đi. Mụ khẩn khoản xin được ở lại, dù có làm con trâu, con ngựa hầu hạ Ngưu cũng cam tâm.
Tình thương dâng lên, Ngưu chấp nhận cho mụ ở lại, thêm một miệng ăn nhưng cũng có thêm người chia sẻ công việc. Thế là mụ nghiễm nhiên trở thành vợ Ngưu, không cần cưới xin, cỗ bàn, cũng chẳng cần phải giấy tờ đăng ký gì hết. Chẳng ai để ý chuyện đó vì Ngưu vốn sống tách biệt với dân làng ngoài bến sông.
Từ ngày mụ Khất xuất hiện trong nhà, những năm tháng buồn của chàng Ngưu có thêm cái gì đó mới lạ.
Bây giờ, mỗi khi nghĩ đến ngày trước, mụ Khất vẫn gật gù, cảm thấy hay hay. Mụ buồn vì không sinh nổi mụn con cho chồng. Dù đã nhiều lần chạy chữa, đi tìm thầy này, thuốc nọ nhưng người ta bảo bụng mụ không có trứng, đành chịu. Thấy nhà người ta có con cái gọi bố ríu rít, lại nghe tiếng thở dài của lão, mụ chạnh lòng , thấy thương chồng lắm.
Trước khi mụ về với lão, căn chòi dựng bằng phên nứa, nóc lợp lá dừa này là nhà của hai cha con lão. Mộ cha lão mới xanh cỏ vài năm nay. Ông cụ chết trong một trận lũ. Lão cũng suýt chết trong trận ấy nhưng Hà Bá chưa vời lão đi. Lão còn sống để cứu vớt cuộc đời mụ, cứu vớt thêm nhiều người khác.
Cuộc đời sông nước lăn lộn của cha con lão đã cứu sống không biết bao nhiêu người khỏi chết đuối. Cha lão đã chết trong một trận lũ lớn khi chở thuyền đưa bộ đội sang bên kia sông. Mộ cụ ngay trên cái gò cao cách nhà không xa. Xung quanh mọc đầy hoa cúc dại.
Con sông Bài chảy lắt léo qua các chân đồi thấp, sim mua lúp xúp. Vào mùa khô, nước xanh trong, có thể nhìn thấy dưới đáy sông lớp đất màu vàng nâu, từng đàn cá măng tung tăng bơi lội.
Thế nhưng vài năm nay, phía bên kia sông xuất hiện một khu công nghiệp làm cho mọi cảnh vật thay đổi một cách khác thường. Nước sông đã có màu là lạ, cá, tôm thưa dần. Cuộc sống của gia đình lão Ngưu trở nên khó khăn hơn. Càng ngày, lão càng uống rượu, bẳn gắt nhiều hơn.
Sắp tới, nghe đâu người ta sẽ khởi công xây dựng chiếc cầu từ bên này bắt sang thẳng chợ Diễm bên kia sông. Lão đang đứng trước nguy cơ thất nghiệp. Rồi gia đình lão sẽ treo niêu.
Mấy chục năm nay, đời cha lão sống gắn bó với con thuyền nhỏ rồi đến lượt lão. Bây giờ, vứt nó đi, lão không biết làm gì để kiếm sống. Có người bảo lão xin vào làm trong khu công nghiệp nhưng lão đã lớn tuổi rồi. Hơn nữa, trong đó toàn máy móc, công nghệ hiện đại. Cái đầu bã đậu của lão sẽ chẳng làm được gì.
Con sông Bài vào mùa cạn nước xanh trong là thế, nhưng mùa lũ trông nó thật dữ tợn. Nước từ trên thượng nguồn đổ về lấn sâu vào bờ, đất hai bên bờ lở từng mảng lớn. Đêm đêm, lão nằm trong nhà nghe tiếng đất sụt và thấy trong lòng thắc thỏm. Ngôi nhà, lão, mụ vợ và đứa con có nguy cơ rơi xuống lòng sông bất cứ lúc nào.
Như thông lệ, hàng năm, cứ vào mùa lũ, lão lại dắt díu vợ con vào làng trong ở nhờ dăm bữa nửa tháng. Lão đã cứu sống nhiều người, giúp đỡ nhiều nhà nên việc ở nhờ ít hôm không có vấn đề gì.
Mùa lũ tới, đáng lẽ lão phải nghỉ tay chèo. Nhưng mấy hôm nay, lão vẫn đánh vật với mái chèo vì nhiều người mắc kẹt ở bên kia sông. Cả bến sông chỉ có thuyền của lão vẫn đánh vật với mái chèo vì nhiều người mắc kẹt ở bên kia sông. Cả bến sông chỉ có thuyền của lão vẫn còn hoạt động. Các chủ thuyền khác đã đóng neo, chằng buộc cẩn thận. Đa phần là họ sợ.
Mùa này, khúc sông ở đoạn bến chính rất nguy hiểm. Hồi mùa hè, các chủ thuyền lớn ở xuôi đã khai thác cát, nạo hút lòng sông tạo thành các vùng xoáy rất nguy hiểm. Lão vẫn chèo vì tin vào kinh nghiệm sông nước mấy chục năm của mình. Lão tính chèo ít hôm nữa để có thể đong đủ gạo cho vợ con trữ trong cả mùa lũ.
Buổi chiều, lão gửi bé Du cho bà chủ nhà mà gia đình mình đang ở nhờ. Lão ra bến cùng con thuyền nhỏ sang bên kia sông để chở các cô cậu công nhân làm việc ở khu công nghiệp về làng. Khi qua đoạn xoáy, do bất cẩn tay chèo, con thuyền của lão bị dòng xoáy hút vào. Con thuyền quay tít như chong chóng.
Những người trên thuyền vốn không biết bơi kêu rối rít, mặt ai cũng tái đi, hai tay bám chặt vào mạn thuyền, mắt nhắm tịt. Bỗng lão lao ùm xuống nước, dùng đôi tay gọng kìm của mình ra sức đẩy con thuyền trôi ra khỏi vùng xoáy. Lão vùng vẫy vừa bơi vừa cố đẩy.
Khi con thuyền khẽ chạm vào mép bờ, mọi người thở phào nhẹ nhõm. Thế nhưng nhìn lại, họ đã không thấy ông lão chèo thuyền đâu nữa. Chỉ thấy con sông Bài gầm gừ nổi quạu. Mọi người hô hoán lên, dân làng đổ xô ra nhưng đều bất lực đứng nhìn.
Cả cuộc đời cha con lão đã cứu sống không biết bao nhiêu người, nhưng khi cha con lão chết thì không ai cứu. Mụ Khất ôm bé Du ngơ ngác khóc ròng, đôi mắt ngây dại đầy tuyệt vọng.
Hai hôm sau, xác lão Ngưu được tìm thấy ở khúc sông dưới, cách nơi lão chết đuối hàng chục cây số. Mụ Khất cùng dân làng đưa lão về chôn bên cạnh mộ cha lão. Hai cha con lại được ở bên nhau. Hai ngôi mộ ở trên một gò đất mọc đầy hoa cúc dại vàng cả một góc bờ sông. Cuối cùng, cha con lão đã cùng nhau về chầu Hà Bá.
Sau khi lũ rút đi, đất đai dường như màu mỡ hơn. Mọi người giúp mụ Khất dựng lại căn nhà bị trận lũ làm xiêu vẹo. Hai mẹ con lại dọn về ngôi nhà cũ. Dân làng trong định giúp mẹ con mụ xây căn nhà nhỏ ở cuối làng để sinh sống. Ai cũng bảo hai mẹ con ở ngoài ấy nguy hiểm nhưng mụ một mực từ chối. Mụ chỉ muốn hai mẹ con sống trong ngôi nhà đã gắn bó với cả cuộc đời cha con lão Ngưu. Như thế, mụ được ở gần chồng, sớm hôm hương khói.
Chiếc cầu chợ Diễm sừng sững bắc ngang qua con sông Bài, dáng cong cong màu trắng như chiếc lược ngà cài vào mái tóc xanh thẳm của lòng sông.
Chiều chiều, những người đi trên cầu sang sông lại thấy bờ bên kia sông, một người phụ nữ bế đứa con nhỏ ngóng vọng ra xa. Hai con người, hai mảnh đời không quen biết nhau trôi dạt vào nhau, giờ đã thành mẹ con, sống nương tựa bên nhau đầm ấm.
Hoa cúc dại hoang hoái nở vàng dọc một triền sông đầy gió. Dòng nước sông cứ chảy vào vô tận. Con sông Bài từ ngày ấy mọc thêm một bến Vọng Phu.
Theo Hoàng Nghĩa