Các biến chứng rất đa dạng, phức tạp và chúng càng trở nên tồi tệ hơn
những biến chứng do tiêm paraffine lỏng gây ra, đó chính là vì sử dụng silicone lỏng công nghiệp có pha các chất gây xơ với mục đích hạn chế sự di tản của silicone.
Biến chứng nặng nhất là tử vong đã được ghi nhận do phản ứng sốc nhiễm
trùng, nhiễm độc sau tiêm silicone lỏng vào cơ thể. Trong các trường hợp
này, loại silicone lỏng được sử dụng thường là loại silicone dùng trong
công nghiệp, không đảm bảo vô trùng, mà bị nhiễm bẩn, lẫn nhiều tạp
chất hay các chất độc khác có trong phụ gia.
Nguyên nhân tử vong do silicone lỏng chui vào mạch máu. Đây là
những trường hợp tiêm silicone lỏng công nghiệp với khối lượng lớn trên
500 ml ở một số vùng như vú, mông. Silicone lỏng từ các tĩnh mạch nơi
được bơm sẽ di chuyển vào mạch máu, phổi, tim, não… gây ra nhồi máu tại
các cơ quan và nhanh chóng dẫn đến tử vong sau nhiều giờ.
Năm 1993, Chen, Y.M và cộng sự báo cáo về 9 trường hợp tiêm silicone
lỏng vào vú với mục đích thẩm mỹ được chẩn đoán tác nghẽn mạch phổi, 3
trong số 9 người tử vong, số còn lại phải chịu di chứng viêm xơ phổi.
Thuyên tắc phổi do tiêm silicone lỏng ở vùng vú rất dễ xảy ra. Các triệu
chứng có thể xuất hiện muộn, khoảng 3 – 6 giờ sau khi tiêm, các triệu
chứng khởi phát thường là hoảng hốt, đau ngực, ho khạc ra máu tươi, khó
thở, tím tái, nhịp thở nhanh và sốt. Thường chỉ sốt nhẹ 37 độ 6, đến 38
độ 5. Các rối loạn thông khí phổi và chỉ số PaO2 giảm mạnh.
Chụp X-quang thấy tình trạng thâm nhiễm của các đám cản quang ở cả 2
phổi. Diễn biến có thể nặng hơn bởi phù phổi cấp và tử vong sau 2 – 3
ngày. Đa phần các trường hợp có triệu chứng của viêm phổi và dù có điều
trị kịp thời đều để lại di chứng xơ phổi do thâm nhiễm silicone.
Silicone lỏng sau khi tiêm trực tiếp vào một bộ phận cơ thể thường có xu
hướng di chuyển tới các vùng xung quanh nhờ quá trình thực bào. Bên
cạnh sự di chuyển đến vùng da phía trên cơ quan được tiêm silicone được
thể hiện bằng các triệu chứng tại chỗ về lâu dài, các hạt silicone còn
được di chuyển đến các vùng xa hơn và tiếp tục gây tổn thương mô ở nơi
bị thâm nhiễm.
Trong nhiều trường hợp tiêm silicone lỏng vùng mũi, silicone có thể di
tản và gây tổn thương tới tận má cằm, cổ và ngực, thậm chí viêm amiđan
mãn tính do các hạt silicone. Từ vị trí tiêm ban đầu là vú, silicone có
thể di chuyển tới thành ngực, lên nền cổ, xuống thành bụng, có khi xuống
cả môi lớn và bìu… Đây cũng là một trong những biến chứng làm chúng ta
không thể giải quyết triệt để bệnh lý. Chúng cũng thường gây ra các biến
chứng nặng nề và phức tạp tại các vùng, cơ quan có lắng đọng hạt
silicone.
Chính vì vậy, việc đánh giá tổn thương của silicone lỏng không chỉ
dừng lại tại cơ quan được tiêm, mà cần khảo sát mức độ tổn thương của cơ
thể xa hơn vùng tiêm silicone. Biến chứng suy đa phủ tạng do tiêm
silicone lỏng cũng được báo cáo.
Clark, R.F và cộng sự (2002) ghi nhận 2 trường hợp sau tiêm silicone
lỏng bị buồn nôn, nôn, lơ mơ, sau đó bị hôn mê, mạch nhanh, huyết áp
hạ, các xét nghiệm cho thấy tất cả các cơ quan tim, phổi, thận và gan…
bị tổn thương. Việc tiêm silicone lỏng thường thực hiện tại các cơ sở
không có giấy phép và thường không phải do các bác sĩ thực hiện nên
không đảm bảo về mặt vô khuẩn, dễ có sự lây truyền chéo các bệnh HIV,
viêm gan B.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về mối liên quan giữa sự xuất hiện của
các bệnh hệ thống và silicone. Tuy vậy, cho tới nay chưa có bằng chứng
nào chứng minh silicone lỏng tiêm vào cơ thể gây phản ứng miễn dịch, làm
xuất hiện các bệnh khớp và bệnh hệ thống lupus ban đỏ.
Theo BSGĐ