Biểu đồ lãi suất huy độngđang có xu hướng đi ngang, thay vì cong lên như nguyên lý huy động càng dài thìlãi suất càng cao.

“Ngắn”, “dài” đều như nhau

Kể từ khi Chính phủ chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước điều hành lãi suất VND theo xuhướng giảm dần, hiện tại, các ngân hàng đã cam kết giữ lãi suất huy động ở mức11,2%/năm.

Thống kê của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, trong 3 tuần gần đây, lãi suất huyđộng nhóm ngân hàng thương mại nhà nước và nhóm ngân hàng thương mại cổ phầntương đối giống nhau. Cụ thể, lãi suất huy động 3 tháng là 11% - 11,2%/năm; 6tháng: 11% - 11,2%/năm; trên 12 tháng: 10,5% - 11,2%/năm. 

Nhìn vào các con số trên, có thể thấy đường cong lãi suất huy động đang có xuhướng đi ngang thay vì cong lên như nguyên lý “huy động càng dài thì lãi suấtcàng cao”. 

Nhìn nhận vấn đề này, đã có một vài lo ngại và liên tưởng đến diễn biến lãi suấtcủa năm 2008. Thời điểm đó, lạm phát phi mã trên 20% nên Ngân hàng Nhà nước buộcphải thi hành chính sách thắt chặt tiền tệ: nâng lãi suất tái cấp vốn, tái chiếtkhấu, rút tiền gửi kho bạc, yêu cầu mua tín phiếu bắt buộc. Chính sách này cộngvới yếu tố cân đối nguồn vốn không tốt ở các ngân hàng, đã đẩy họ vào tình thếbất ổn thanh khoản. 

Tuy nhiên, so sánh với thời điểm hiện nay, một cán bộ Ban Kinh doanh nguồn vốncủa Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV) nói: “Xu hướng biểu đồ lãi suất đithẳng là chuyện bình thường trên thị trường, không thể nói rằng, cứ “thẳng” làbất hợp lý và có dấu hiệu đe dọa thanh khoản”.

Theo ông này, thanh khoản của hệ thống ngân hàng hiện rất tốt, hầu như ngân hàngnào cũng dư nguồn vốn khả dụng và bằng chứng là doanh số giao dịch liên ngânhàng tuần sau giảm hơn tuần trước và lãi suất kỳ hạn từ 12 tháng trở lên cũnggiảm theo. 

Biểu đồ lãi suất: Đáng lẽ cong, sao lại thẳng?
Cầu vốn trung dài hạn ở các ngân hàng chưa trở lại nhịp độ quen thuộc của 3 - 4 năm trước đây (Ảnh minh họa)

Vậy vì sao biểu đồ lãi suất lại đi thẳng thay vì cong lên như nguyên lý? Mộtchuyên gia của Hiệp hội ngân hàng cho rằng, các ngân hàng vẫn duy trì lãi suấttrung dài hạn tương đương lãi suất ngắn hạn là bởi tỷ trọng nguồn vốn trung dàihạn ở các ngân hàng vẫn còn thấp nên họ vẫn để lãi suất ở mức đó để tiếp tục thuhút tiền gửi. Ngoài ra, do vướng phải “trần cam kết” (các ngân hàng đang cam kếtlãi suất huy động ở mức 11,2%/năm) thì có muốn nâng lãi suất trung dài hạn cũngkhó. 

Chưa kể, mặc dù nền kinh tế đã sáng sủa hơn nhưng thị trường hàng hóa xuất khẩuvẫn chưa tốt hơn do châu Âu đang lún sâu vào khủng hoảng nợ, thị trường Mỹ chưaphục hồi nên doanh nghiệp chưa muốn vay kỳ hạn dài để mở rộng sản xuất kinhdoanh và cầu vốn trung dài hạn ở các ngân hàng chưa trở lại nhịp độ quen thuộccủa 3 - 4 năm trước đây. 

Điểm tựa lãi suất ở đâu?

Đồng quan điểm trên, ông Phan Đào Vũ, Tổng giám đốc Ngân hàng Bảo Việt (BaoVietBank) cho rằng, không phải bao giờ lãi suất trung dài hạn cũng phải cao hơn lãisuất ngắn hạn chúng ở mức nào là do hai yếu tố kiểm soát CPI và mức lãi suấttrái phiếu Chính phủ quyết định.

Theo ông Vũ, hiện tại, Trung Quốc, Mỹ hay châu Âu vẫn tiếp tục duy trì chínhsách lãi suất thấp ở mức 5%/ năm, thậm chí vài phần trăm/năm nhằm khơi thông tíndụng, kích thích doanh nghiệp khôi phục sản xuất.

Trái lại, ở Việt Nam với mứclãi suất huy động 11,2%/năm vẫn bị coi là cao. Vì thế, kỳ vọng của thị trường,đặc biệt là của doanh nghiệp vay vốn vẫn mong muốn lãi suất thấp hơn nữa. Tuynhiên, để làm được điều này thì trước hết, Nhà nước phải kiểm soát được lạm phátở mức để người gửi tiền được lợi. 

Biểu đồ lãi suất: Đáng lẽ cong, sao lại thẳng?

Ông Vũ nói: “Lãi suất luôn phụ thuộc vào kiểm soát lạm phát, nếu lạm phát ở xuhướng thấp thì lãi suất thị trường sẽ ở mức thấp bởi sự biến động của chúng luônphụ thuộc vào việc biễn thiên của lạm phát”. 

Nhìn lại diễn biến năm 2008, sẽ thấy rất rõ: khi lạm phát tăng cao, buộc Ngânhàng Nhà nước phải thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ, dẫn đến các ngân hàngthương mại thiếu thanh khoản buộc phải huy động ở thị trường 1 và thị trường 2để bù đắp và thực hiện các cam kết tài chính với khách hàng. Tất nhiên, ngânhàng phải chấp nhận duy trì lãi suất ở mức độ tiệm cận với thực dương thì ngườigửi tiền mới chịu gửi.

Liên quan tới mối quan hệ giữa lãi suất trái phiếu Chính phủ và lãi suất thịtrường, có thể thấy, năm 2009 là năm không thành công của trái phiếu Chính phủkhi phần lớn các đợt phát hành đều trong tình trạng ế ẩm. Tuy nhiên, từ đầu năm2010 đến nay, lại được mùa trái phiếu Chính phủ. Năm nay, VDB dự kiến phát hành60 nghìn tỷ đồng, Kho bạc dự kiến phát hành khoảng 60 nghìn tỷ đồng và đến nay,cả hai đơn vị này đã hoàn thành ít nhất 50% kế hoạch. 

Trong vòng 2 tháng gần đây, lãi suất trái phiếu Chính phủ 5 năm từ mức 12,3%/nămđã hạ xuống 11,3%/năm và gần đây là 10,3%/năm. Nhìn nhận về vấn đề này, ông PhạmQuốc Thanh, Phó tổng giám đốc Ngân hàng An Bình (ABBank) nói: “Nên coi lãi suấttrái phiếu Chính phủ là điểm tựa và định hướng cho lãi suất thị trường”. 

Thực tế, mức dao động lãi suất trái phiếu Chính phủ trong hai tháng qua từ 12,3%- 11,3% - 10,3% cho thấy, khi đi vay nợ người dân, Chính phủ đã bám sát hơn vớithị trường. Hơn nữa, một phần “đầu ra” của ngân hàng là trái phiếu Chính phủ,nếu ngân hàng mua với mức 10,3%/năm trong vòng 5 năm thì đầu vào của ngân hàngphải thấp hơn mức này.

Vậy nên, nếu Chính phủ muốn lãi đường cong lãi suất ổn định và trở thành mạchmáu cho nền kinh tế thì lãi suất trái phiếu Chính phủ phải hợp lý. Sự hợp lý nàykhông những tạo nên ổn định vĩ mô mà còn đảm bảo lợi ích cho các bên tham giavào thị trường.

Biểu đồ lãi suất liên ngânhàng tuần từ 10/7 - 17/7/2010
(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước)

Kỳ hạn

Qua đêm

1 tuần

2 tuần

1 tháng

3 tháng

6 tháng

12 tháng

KKH

VND

6,60

7,01

7,40

8,78

10,29

11,73

9,40

2,00

Theo Nguyễn Hoài
VnEconomy