Nhập khẩu than được bàn đến nhiềunăm gần đây, đến thời điểm này trở thành chuyện cấp bách. Nhập từ nguồn nào,ngoại tệ đâu ra, là những bài toán khó.
Song khó hơn nữa là bài toán pháttriển công nghệ, bảo tồn và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên khoáng sản, pháttriển đồng đều các loại hình điện hạt nhân, điện gió, nhiệt điện đốt bằng khí,trấu…
Ba Tập đoàn: Công nghiệp Than –Khoáng sản Việt Nam (TKV); Dầu khí Việt Nam (PVN) và Điện lực Việt Nam (EVN) vừahoàn tất đề án trình Chính phủ xin thành lập Ban chỉ đạo nhập khẩu than cho tổngsơ đồ phát triển điện Việt Nam với nhận định việc nhập khẩu than từ năm 2012 trởđi là việc cực kỳ khó khăn và là nhiệm vụ mang tính cấp kỳ.
Nhập vẫn nhập, xuất vẫn… xuất
Theo đề án được ba ông lớn trênxây dựng, sản lượng tiêu thụ than trong nước liên tục tăng mạnh trong những nămgần đây, chủ yếu để đáp ứng nhu cầu phát điện.
Năm 2009 sản xuất 40 triệu tấnthan thương phẩm, tiêu thụ khoảng 43 triệu tấn. Dự báo nhu cầu than cho điện năm2010 ở mức 11,4 triệu tấn; năm 2015 là 63,2 triệu tấn. Đến năm 2020 con số nàylên tới 196 triệu tấn. Như vậy, TKV không thể đáp ứng tốc độ tăng trưởng tiêuthụ nhanh như trên.
Theo TKV, nhiều hộ tiêu thụ sửdụng than năm sau cao hơn năm trước là do công nghệ lạc hậu. Nguyên nhân khác,do vận chuyển xa, bảo quản không tốt (kho than không có mái che) khiến chấtlượng than giảm.
![]() |
Theo Ban soạn thảo, giá than chậmtheo thị trường khiến ngành than khó khăn về nguồn tài chính đầu tư cho công tácthăm dò, phát triển mỏ, thiếu hụt than sẽ càng trầm trọng hơn.
Vì vậy, việc nhập khẩu than trởthành bài toán cần có lời giải ngay. Việc nhập khẩu sẽ giúp giá than trong nướctương đương giá quốc tế, sẽ hạn chế tình trạng xuất khẩu than ngoài luồng hiệnnay.
Tuy cho rằng nhập khẩu than trong những năm tới là không thể tránh khỏi, nhưngcác ông lớn vẫn giữ quan điểm cần xuất khẩu các loại than mà trong nước chưadùng đến, thay vì “để dành” cho mai sau.
Hiện công tác đầu tư xây dựng mỏgặp nhiều khó khăn và do tác động của khủng hoảng, nên sản lượng than theo quyhoạch giai đoạn đến 2015 cung ứng cho nền kinh tế sẽ thấp hơn so với quy hoạchphát triển ngành than.
Trong khi đó, đến năm 2012, thancho các dự án điện của TKV sẽ thiếu 8,2 triệu tấn, và năm 2015 sẽ thiếu 12,8triệu tấn. Lượng than phải nhập khẩu dự kiến cho các nhà máy nhiệt điện phía Namở mức 28 triệu tấn năm 2015, và 66 triệu tấn năm 2020.
Nước đến chân mới nhảy
|
Việc nhập khẩu than cho sản xuất điện và đáp ứngnhu cầu phát triển kinh tế được đánh giá sẽchồng chất những khó khăn.
Việt Nam từ một nước xuất khẩuthan ròng (than antraxit) sẽ trở thành nước nhập khẩu than ròng trong tương laigần (nhập than mỡ và than năng lượng bitum).
Hiện hầu hết các quốc gia tạichâu Á đều đề ra những kế hoạch tham vọng trong phát triển các nhà máy nhiệtđiện đốt than. Như vậy, dự báo trung và dài hạn, nhu cầu than nhiệt sẽ tiếp tụctăng trên thị trường khu vực.
Ban soạn thảo cho biết, than nhậpkhẩu có thể trông chờ nhập từ Indonesia và Úc, nhưng trong bối cảnh thị trườngthế giới từ nay tới thời điểm đó cũng sẽ khan hiếm.
Trong khi thị phần nhập khẩu thannăng lượng của Australia, Indonesia đã do Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan – TrungQuốc… nắm giữ, Việt Nam khó có thể đàm phán mua than được, nhất là với số lượnglớn.
Cùng với đó, việc xác định thờihạn hợp đồng dài hạn cũng như cơ chế tính giá than theo giá thị trường và biếnđộng của chi phí vận chuyển cũng là những khó khăn lớn khi tiến hành nhập khẩuthan.
“Muốn có khả năng nhập khẩu than ổnđịnh, lâu dài, Việt Nam cần phải mua quyền khai thác mỏ, hoặc có cổ phần sở hữumỏ than ở nước ngoài. Đây là hình thức đầu tư mới với ngành than - khoáng sản,cơ sở pháp lý và các văn bản hướng dẫn thực thi Luật Đầu tư nước ngoài cònthiếu, chưa có cơ sở để triển khai và cần được sớm nghiên cứu giải quyết” - Đềán thừa nhận.
Điểm đáng nói nữa, ngoài nhữngkhó khăn, đề xuất được nêu ra, đề án không hề đả động đến việc tìm ra, pháttriển các nguồn năng lượng mới thay thế nhập khẩu than như: Nhiệt điện chạy khí,Phong điện, điện thuỷ triều..., nguồn năng lượng mà Việt Nam có tiềm năng rấtlớn.
|
TheoPhạm Tuyên