Việc ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành thông tư số 11/2011/TT-NHNN chấm dứt huyđộng và cho vay bằng vàng của các tổ chức tín dụng là cần thiết, nhưng nên tínhđến hậu thông tư 11 là cung - cầu vàng trong nước có thể biến động do việcchuyển từ gửi vàng sang bán vàng. Một lượng vốn lớn sẽ nằm dưới dạng vàng vậtchất...

Siết dần

Việc huy động và cho vay vốn bằng vàng được các ngân hàng thương mại (NHTM) thựchiện từ những năm 90 (khi giá vàng ở Việt Nam thấp và vàng gần như mất vai tròlà phương tiện thanh toán). Đến năm 2000, NHNN đã ban hành quyết định số432/2000/QĐ-NHNN1 ngày 3.10.2000 về nghiệp vụ huy động và sử dụng vốn bằng vàng,bằng VND đảm bảo giá trị theo giá vàng của các tổ chức tín dụng (TCTD).

Trướcnăm 2005, việc kinh doanh vàng rất có lợi cho NHTM. NHTM thường huy động vànglãi suất thấp, bán ra lấy tiền đồng để cho vay lãi suất cao, còn phần chênh lệchthì bảo hiểm rủi ro bằng cách đi mua hợp đồng tương lai, option hay swap. Do đóhuy động và cho vay bằng vàng là hoạt động khá phổ biến với một số NHTM và chiếmtỷ lệ lợi nhuận cũng khá cao.

Tháng 10.2010, NHNN ban hành thông tư số 22/2010/TT-NHNN với mục tiêu hạn chếcác hoạt động huy động và cho vay vàng của các TCTD: chỉ cho phép các TCTD huyđộng vốn bằng vàng thông qua phát hành giấy tờ có giá, cho vay vốn bằng vàng đểsản xuất (chế tác) và kinh doanh vàng trang sức (không được cho vay để sản xuấtvà kinh doanh vàng miếng); TCTD không được chuyển đổi vốn huy động bằng vàngthành VND và các hình thức bằng tiền khác.

Thông tư số 22 có mục tiêu làm giảmsức hấp dẫn của kênh đầu tư vàng, loại bỏ dần việc vàng hoá. Thời điểm này giávàng đang ở mức rất cao, NHNN hy vọng thông tư 22 sẽ khiến các NHTM bán lượngvàng đang nắm giữ, làm giảm sức nóng của thị trường. Mặt khác, cơ chế mới cốgắng khắc phục rủi ro về kỳ hạn, thanh khoản và lãi suất đối với TCTD huy độngvà cho vay bằng vàng.

Bước tiếp theo, ngày 29.4.2011, NHNN ban hành thông tư số 11/2011/TT-NHNN quyđịnh về chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng của TCTD.

Ngoại lệ: Cho huy động hạn chế vì lý do thanh khoản

Tính đến cuối tháng 9.2010, có 23 TCTD huy động và cho vay bằng vàng với số dưhuy động là 92,6 tấn, tương đương 73.000 tỉ đồng. Hiện nay, theo báo cáo của cácTCTD và NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố, việc huy động vốn bằng vàng tập trungchủ yếu ở hai thành phố lớn là TP.HCM (chiếm 75,85% tổng huy động vốn bằng vàngcủa cả nước) và Hà Nội (chiếm 11,67%).

Cần có chính sách chu chuyển vàng
Vấn đề dư luận quan tâm nhất hiện nay là xử lý vấn đề vàng trong dân như thế nào để chuyển hoá thành nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế? (Ảnh: tintuc.xalo.vn)

Điểm đáng chú ý trong nội dung thông tưsố 11 là trong khi cấm hẳn các TCTD thực hiện cho vay vốn bằng vàng thì NHNN vẫncho phép phát hành chứng chỉ ngắn hạn bằng vàng để chi trả vàng theo yêu cầu củakhách hàng, khi số vàng thu nợ và tồn quỹ không đủ để chi trả.

Điểm này cho thấythanh khoản trong việc huy động và cho vay vốn bằng vàng của các TCTD nói riêngvà thanh khoản tiền đồng nói chung của các NHTM hiện đang có vấn đề. Nhiều khảnăng các khoản cho vay bằng vàng thường có kỳ hạn dài (cho vay mua bất động sản).Vì vậy, việc ngừng hoàn toàn huy động vàng sẽ khiến các NHTM gặp khó khăn trongviệc trả các khoản huy động vàng đáo hạn.

Giảm rủi ro cho cả ngân hàng và khách hàng

Thông thường lãi suất vay vàng chỉ bằng một nửa lãi suất vay tiền đồng. Nếu sosánh với tiền đồng thì lãi suất vay vàng khá hấp dẫn. Tuy nhiên, do giá vàngluôn biến động nên dễ mang lại rủi ro cho người vay. Kể từ cuối năm 2005 đếnnay, đã có nhiều người điêu đứng vì lỡ ký hợp đồng vay vàng mua nhà trả góptrong khi giá vàng cứ liên tục leo thang. Bản thân các NHTM cũng rủi ro khi huyđộng bằng vàng, vì khách hàng gửi tiết kiệm bằng vàng được quy đổi theo vàngmiếng tiêu chuẩn.

Đến hạn, khách hàng được thanh toán vốn gốc bằng vàng miếngtiêu chuẩn hoặc bằng số tiền quy đổi giá trị tương đương theo giá mua vào tạithời điểm thanh toán do NHTM công bố. Lãi được tính và quy đổi theo giá mua vào,thanh toán bằng VND. NHTM sẽ tăng rủi ro trong cho vay vàng và chuyển đổi nguồnvốn bằng vàng thành VND khi giá vàng tăng cao và chưa có biện pháp khả thi đểphòng ngừa rủi ro giá vàng.

Ngoài ra, việc mở rộng huy động và cho vay vốn bằngvàng của các TCTD tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với nền kinh tế: làm tăng tình trạngđôla hoá trong nền kinh tế, tăng hiện tượng đầu cơ, thị trường “ngầm” về vàngdiễn biến phức tạp, nhập lậu vàng tăng, tác động tiêu cực đến thị trường tiền tệ,ngoại hối và tỷ giá.

Hậu thông tư 11?

Dù có nhiều tác động tích cực như trên, nhưng thông tư 11 chưa giải quyết hếtđược những vấn đề liên quan đến kinh doanh vàng tại Việt Nam. Vấn đề dư luậnquan tâm nhất hiện nay là xử lý vấn đề vàng trong dân như thế nào để chuyển hoáthành nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế?

Theo một số nguồn tin (chưa được côngnhận chính thức) thì sơ bộ, lượng vàng dự trữ (chủ yếu trong dân cư) của ViệtNam đã tăng liên tục trong nhiều năm qua và đạt mức cao nhất 1.000 tấn vào cuốinăm 2009 với tổng trị giá lên tới 45 tỉ USD, bằng 50% GDP của Việt Nam cùng thờiđiểm và tiếp tục tăng trong năm 2010.

Việc chấm dứt huy động bằng vàng và TCTDkhông được chuyển đổi vốn huy động bằng vàng trước đây thành VND và các hìnhthức bằng tiền khác sẽ khiến người dân có vàng miếng gặp khó khăn khi muốnchuyển vàng miếng thành tiền để đáp ứng nhu cầu tài chính của mình trong khi códự báo là thời gian tới cung - cầu vàng trong nước có thể biến động do việcchuyển từ gửi vàng sang bán vàng.

Bên cạnh đó, một lượng rất lớn vốn trong xãhội sẽ nằm dưới dạng vàng vật chất trong khi ngân sách nhà nước, các TCTD, doanhnghiệp chưa có công cụ huy động để chuyển vàng thành vốn bằng tiền (VND, ngoạitệ) để đầu tư vào sản xuất - kinh doanh. Đây là vấn đề rất lớn và cần nhanhchóng có những chính sách hậu thông tư 11 để giải quyết.

Theo Bắc Nam
SGTT