![]() |
Ảnh: TL SGTT |
Hễ bếp núc gọn gàng, sạch sẽ là bà mẹ chồng tương lai cho một điểm rất cao trongnhững căn cứ để kén dâu
Có lẽ thứ bếp di động này đã góp phần quan trọng vào nền văn hoá ẩm thực của đấtphương Nam mà cho đến bây giờ khi nhắc đến những món ăn đó ta còn thèm chảy nướcmiếng, đó là: cá lóc nướng trui, rắn nướng, rùa rang muối, ốc nướng tiêu…
Mười bảy tuổi tôi đã bắt đầu xa quê, đó là một chuyến đi dài đến tận bây giờ,thi thoảng mới về thăm quê cũ. Sau này khi má tôi qua đời, chị Hai tôi bị máybay Mỹ bắn chết, còn em gái tôi thì đi lấy chồng xa; mỗi lần về thăm quê, nhìncái chái bếp lạnh tanh những hình bóng cũ, lòng tôi cứ bùi ngùi, xốn xang đến ứanước mắt. Khi đó tôi mới ngộ ra rằng, cái chái bếp chính là không gian của nhiềuthế hệ phụ nữ nối tiếp nhau thắp lên một ngọn lửa tình cảm gia đình, làm nên cáihồn gia đình trong mỗi cuộc đời chúng ta.
Làng tôi được những ngư dân khẩn hoang từ miệt Tiền Giang kéo về đây lập ra khálâu đời. Thế nhưng hàng trăm năm qua nó vẫn là một xóm nhỏ nghèo xơ xác và buồnhiu hắt. Xóm nằm trên bờ sông Bạc Liêu nhưng lại là khúc sông buồn, khúc sônglượn như con rắn với những doi những vịnh. Chiều xuống, nước lớn, tiếng bìm bịpdội rền rền mặt sông, nghe âm u và trầm uất đến lạ. Xóm có hơn 200 nóc gia vàtoàn là bằng cột cây rừng và lợp lá dừa nước.
Nhà cất một kiểu giống nhau, mộtgian nhà lớn ba căn và bên hông nó là một gian nhà nhỏ liền kề, mà nông dân gọinôm na là cái chái bếp. Dân ở đây xem trọng việc xây dựng chái bếp bằng với ngôinhà chính, theo quan niệm: nếu ngôi nhà lớn cất nhằm ngày tốt, hướng tốt… thìhọc hành đỗ đạt, mùa màng và công việc làm ăn… sẽ “thuận buồm xuôi gió”; còn nếuchái bếp tốt thì gia đạo sẽ thuận hoà, đầm ấm.
Thế cho nên khi cất chái bếp aicũng đi nhờ thầy coi ngày lành, hướng đặt miệng lò. Khi chụm bếp lửa, đầu tiênlà phải cúng bái bằng trái cây hoặc chè, xôi… Đến 23 tháng chạp âm lịch đưa ôngTáo về trời, là người dân quê tôi cúng chè xôi… Sau đó thì chùi rửa, dọn dẹpsạch sẽ bàn thờ ông Táo, dán liễn mới. Đến 30 tết, gia chủ lại làm lễ cúng báiđể rước ông bà, trong đó có rước ông Táo. Người dân xem trọng ông Táo, cho nênmấy cái lò nặng bằng đất sét đó họ gọi một cách trân trọng là “ông lò”.
Qua những câu chuyện của ông bà, cha mẹ tôi kể về cái thuở mới đến đây dựngnghiệp giúp tôi hình dung được cái bếp lò thời khẩn hoang. Hồi ông bà tôi đến xứBạc Liêu để khẩn hoang đã dựng một căn chòi lá cặp bờ sông làm chỗ trú mưa nắngđể chặt cây dọn rừng. Và họ chọn một góc chòi để làm bếp. Bếp lúc nấy giờ là bacục đất sét nặn giống như con cờ vua rồi xếp chụm đầu vào. Trên đầu đặt nồisiêu, sanh, chảo, dưới đặt củi đốt lò.
Vật liệu đốt lò gồm bất cứ thứ gì dễ cháy như: cành cây khô, lá khô. Thậm chí cógia đình “làm biếng” cứ chất một đống rơm cạnh nhà, hễ tới bữa là ra rút rơm vềnấu quanh năm.
Bếp lửa nhà nổi lên thì khói bay mù mịt. Người nấu cơm mắt, mũi chảy nước… vậymà hồi hoá ra hay, khói đã xua được bầy muỗi đói vốn rất nhiều, đến phải đặt vè:“Muỗi kêu như sáo thổi”.
Người khẩn hoang xưa khi đi xa để dọn rừng phát ruộng thường mang theo một bếplò di động. Họ xách ba ông Táo hay một cái lò nặn bằng đất sét, có đáy, nungchín, đến nơi làm, chọn một chỗ khô ráo rồi đặt lò và nhặt cành cây khô nổi lửalên. Đầu tiên là để xua muỗi mòng, sau đó thì dọn rừng phát ruộng gặp cua, vọp,ốc, rùa, rắn… thì bỏ vào nướng.
Trở lại cái bếp di động của người khẩn hoang, đến buổi nghỉ trưa thì họ vo gạo,bắc nồi cơm lên và thức ăn thì đã có sẵn. Thế là bữa cơm được dọn ra giữa cáikhông gian rừng rậm hoang vu hay chốn đồng không mông quạnh, người ta ăn đến 5 -7 chén cơm vì lao động cực nhọc và cũng vì thức ăn là đặc sản ngon tuyệt trần.
Đất đai nhiễm mặn lưu niên, cuối mùa gắt thường lúa bị háp trắng nên dân xứ nàyxoay qua chất chà, giăng lưới hoặc đăng cá tôm kiếm sống. Mỗi lần đi đánh cá đềuxách theo một cái lò đất nung dùng để un khói xua muỗi và khi đói thì cho xuồngghé vào một lùm cây khuất gió rồi nổi lửa nấu cơm, cũng có khi là nấu trà đểuống.
Một hình ảnh mà lúc nhỏ tôi thường gặp là một ông lão giăng câu ngồi trênsạp một chiếc xuồng con, trong một đêm sông chở đầy trăng, đầy đom đóm lập loètrên rặng trâm bầu, giữa xuồng là cái lò lửa cháy bập bùng, nồi nước sôi réo,ông ngồi bên một bình trà để trong hộp sọ dừa…; vừa uống trà, vừa ngâm nga mấycâu hò sông Hậu: Cúc mọc dưới sông, kêu bằng cúc thuỷ/ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũngxa/ Gởi thư thăm hết mọi nhà/ Trước là thăm mẹ sau là thăm em.
Đến thời tôi biết thì chái bếp của mỗi gia đình ở quê tôi được xây cất gọn gàngtheo kiểu của thời đó. Người ta đóng cái bếp bằng cây rừng, hình chữ nhật, ngangkhoảng 8 tấc, dài khoảng 1,2m, dưới chân thì đóng hai cái cây, vừa có tác dụnglàm cái khung vừa để chất củi khô. Mặt giàn bếp được làm bằng đất bùn trộn rơmrồi phơi đến khô cứng. Trên mặt giàn bếp là chỗ để 2 – 3 chiếc lò và trên nữa làcái trang nho nhỏ đóng lên cột để thờ ông Táo.
Trên nóc trái bếp bao giờ mạngnhện và lá cũng đen mun vì khói bếp lâu ngày. Gần cái giàn bếp thường một bên làmột cái “cự” củi thật to, một bên là cái giàn chén được đóng bằng cây rừng, trehay đơn giản hơn là sóng lá dừa nước. Trên mặt giàn chén thì úp chén, tô, đĩa vàmấy chai, lon đựng mỡ, tỏi; trên vách đóng mấy cây đinh để máng nồi, ơ, chảo, rếnồi, vỉ lò… Dưới chân giàn chén thì đặt mấy cái “cà bịch” đựng muối, gạo…
“Càbịch” được đan bằng lá dừa nước. Không gian còn lại dùng làm chỗ ăn cơm. Có giađình đóng bàn ăn bằng tre, có gia đình hễ tới bữa ăn là trải chiếc nệm ra rồi cảnhà quây quần, họ ăn cơm trong lúc lũ gia súc nhao nháo đòi ăn, có khi gà, vịt,chó nhảy cả vào mâm cơm…
Các gia đình nhà quê rất ít khi mua thức ăn, ngoại trừ mua nước mắm, mỡ… Cũng cógia đình chẳng cần mua nước mắm, họ “ao” sẵn một hũ nước mắm để trong giàn bếp,khi cần là múc ra dùng. Thức ăn thì “mùa nào thức ấy”. Nước ròng thì canh chuacá kèo, tép đất luộc ăn với lá chùm ruột… Nước kém thì lấy tép rang sẵn ra rồichấm với giấm ớt đưa cơm. Hồi đó tép rang mặn với muối hột là món ăn để lâungày, phòng khi không có thức ăn.
Nhà nào cũng rang cả thúng tép rồi treo lênchái bếp, hễ không có đồ ăn thì lấy ra. Lũ trẻ con thời đó thấy tép rang là sợ.Đến mùa sa mưa, nước đồng lênh láng, không bắt cá tôm được thì gia đình nhà quêmở hũ mắm trong chái bếp ra chưng, ăn kèm với bí rợ hầm dừa. Tháng chạp hoặc ragiêng là mùa tát đìa, nhà nào cũng làm mắm, làm khô dự trữ… Chái bếp nực nồngmùi mắm, mùi khô.
Hồi xưa chái bếp nhà tôi rất rộng, được ngăn làm đôi. Một phần làm buồng ngủ,một phần để nấu ăn. Đầu tiên thì má tôi ngủ, khi chị Hai tôi lớn lên thì má tôilên nhà trên nhường phòng cho chị, khi chị Hai tôi mất thì căn phòng ấy lạinhường cho em gái tôi. Cái phòng ngủ rất đơn giản, gồm một chiếc giường tre, mộtcái rương đựng quần áo… Cửa buồng ăn thông ra khu bếp. Hễ ai ngủ trong phòng ấylà làm chủ cái “giang san” chái bếp. Tuy cuộc sống gia đình lam lũ quanh nămnhưng tôi đều thấy chái bếp sạch sẽ, ngăn nắp. Mùa hạn là má tôi đi chặt củi vềphơi khô cả một khoảnh sân lớn, sau đó thì chất đầy một “cự” củi dài đến 5m, cao2m. Số củi này đủ cho gia đình đốt lò quanh năm, kể cả giỗ chạp, ngày tết.
Cái chái bếp nhà tôi là nơi vương vấn nhất của bốn người phụ nữ thân yêu: mátôi, chị Hai tôi và hai đứa em gái tôi. Tôi nhớ những buổi trưa hè má tôi ngồingạch cửa chải tóc cho chị Hai tôi, rồi chị Hai tôi lại xức dầu dừa chải tóc tôivà hai đứa em gái trong ngày 30 tết. Nhớ những trưa má tôi ngồi xay bột nặn bánhlá, chị Hai tôi hấp bánh rồi cả nhà xúm xít quây quần vừa chan vừa húp. Cái thuởnghèo khổ, đói bánh, đói trái… nên chiếc bánh đơn giản làm từ bột gạo đó tôi ănvào và nghe ngon ngọt đến tuyệt trần. Lớn lên đi xa, được ngồi trước những bữatiệc cao lương mỹ vị mà vẫn thấy không ngon bằng chiếc bánh của má và chị Haitôi làm ngày đó.
Cái chái bếp nhà tôi thật sự rộn ràng và vui đến nức lòng khi có giỗ chạp, tếtnhất. Buổi chiều mấy chị hàng xóm, bạn của chị Hai tôi, kéo đến cười nói râmran, kẻ xay bột, người đánh trứng, sau đó thì ngồi nướng bánh bông lan hay “xên”mứt dừa… chuẩn bị cho ngày mai đám giỗ. Tối đó, các chị đùa giỡn trong phòng chịHai tôi rất khuya.
Năm tháng cứ trôi qua, càng lúc càng xa thăm thẳm nhưng trong góc lòng tôi vẫncòn đó tươi nguyên một chái bếp lững lững khói cơm chiều. Cái chái bếp ấy đãtừng tạo ra tình cảm gia đình trong tôi và bây giờ nó vẫn tiếp tục gợi thương,gợi nhớ. Thương nhớ đến xót xa, bùi ngùi một gia đình nhà quê đã rời khỏi đờisống tôi từ lâu lắm.
Theo PHAN TRUNG NGHĨA
SGTT