Trời bắt đầu trở lạnh. Đã cuối mùa thu. Sương muối rơi lộp bộp trên mái nhà lợpbằng lá cọ. Bà Chiều vừa thiu thiu ngủ bỗng giật mình nghe tiếng kêu của conchim lợn đi ăn đêm. Tiếng nó “eng éc” nghe lạnh cả người. Nó bắt đầu kêu từ khunghĩa địa bên kia cánh đồng. Bay ngang qua làng Trung tiếng nó có vẻ thảm thiếthơn. Người ta bảo khi nó kêu là lúc đã ăn no rồi đang bay về tổ. Nhưng chim lợn kêu nhiều thường là có người sắp lìa cõi trần.

Tiếng chim lợn kêu ngang trời như gọi hồn người chết thăng thiên. “Chết thôi!Ông Túc đang ốm. Con chim hôm nay sao mà kêu ghê thế… hay là…”. Bà Chiều nghĩvậy. Bà trở mình, giát giường kêu cót két. Bà ngồi dậy quờ chân tìm dép. Khôngbật điện, bà lập cập vặn to ngọn đèn dầu hạt đỗ đặt trên bàn thờ. Bà vừa rút mộtnén hương chưa kịp châm thì nghe thấy tiếng người ồn ào rộ lên ở phía cuối làng.Bà thở dài: “Thôi ông ra đi cho mát mẻ!”. Giọt nước mắt ứa ra trên gò má nhănnheo của bà.

Chim lợn kêu ngang trời

Bà Chiều lay thằng cháu ngoạiđang nằm ngủ ở giường bên cạnh. Nó cáu cẳn:

- Bà làm gì thế! Cháu vừa mới ngủ được một lát bà đã gọi…

- Mày đưa bà xuống nhà ông Túc ngay.

- Đang đêm bà xuống nhà lão ấy làm gì?

- Hình như… ông… ấy…

- Lão ấy đang ốm nặng… đã ngoẻo rồi hả bà?

- Vả vào cái mồm mày! Ăn với nói… dậy đi!

Chim lợn kêu ngang trời

Thằng cháu uể oải ngồi dậy. Nóbật điện tìm cây đèn sạc. Bà Chiều cũng đã tìm được cây gậy.

Thằng cháu soi đèn đưa bà ngoại đến cổng nhà lão Túc. Trong nhà đèn điện sángchoang, tiếng người ồn ào. Đúng là ông ấy đã đi rồi. Từ ngoài cổng thằng cháuthính tai đã nghe rõ mọi chuyện. Nó bảo bà:

- Lão ấy ngoẻo… À...à… - Nó vội lấp liếm: - Ông Túc chết rồi bà ạ! Bà vào nhàông ấy nhé. Cháu về ngủ tiếp đây. Mai cháu sẽ đi đào huyệt…

Nói xong nó để bà đi vào nhà lão Túc rồi quay về ngủ tiếp.

Bà Chiều che mắt cho khỏi chói ánh điện bước vào sân. Một phụ nữ nhìn thấy chạyra dắt tay bà vào nhà. Lão Túc đang được mấy người mặc cho bộ quần áo mới đểkhâm liệm. Cái quan tài lão chuẩn bị sẵn sơn đỏ loè loẹt đã được kê ra giangiữa.

Bà Chiều nhìn mặt lão Túc lần cuối trước khi người ta gấp tấm vải xô lại để buộcdây bó kín thi thể. Trong đầu bà chuyện về lão Túc như chợt hiện về từng đoạn,từng đoạn, rất rành mạch.

Đó là những ngày tiền khởi nghĩa. Thanh niên, phụ nữ làng Trung hào hứng, phấnkhởi nghe lời kêu gọi của cán bộ Việt Minh chặt tre làm gậy gộc, cắm dao vào cángỗ làm giáo sẵn sàng vùng lên giành chính quyền. Lão Túc hồi ấy là những ngườihăng hái nhất. Lão Túc là dân bần cố nông, làm thuê, cuốc mướn. Được giác ngộ,lão càng thêm nhiệt tình hoạt động. Lão là người đã vác mã tấu đi sát anh cán bộViệt Minh dẫn đầu đoàn người biểu tình xông vào toà công sứ Pháp ở trên tỉnhcướp chính quyền. Trong kháng chiến, lão là đội viên đội công an xung phong củaxã chuyên diệt tề, trừ gian. Một mình lão ban ngày ban mặt dám áp sát tên Việtgian chỉ điểm giữa chợ xỉa vào sườn nó một dao khiến nó ngã xuống giữa đám línhdõng hoảng loạn.
Cải cách ruộng đất nổ ra, lão Túc được chọn làm hạt nhân cốt cán để đấu tố, pháthiện địa chủ. Chả là từ bé, lão đã đi ở chăn trâu cho nhà ông Biên. Ông Biên cómấy mẫu ruộng, hai con trâu, một ngôi nhà gỗ xoan. Khi đội bồi dưỡng cho lão Túcchuẩn bị đấu tố, mà người sẽ đấu là ông Biên, lão ngạc nhiên hỏi lại:

- Tôi ở làm cho nhà ông Biên thật nhưng ông ấy đâu có “bóc lột” gì tôi. Ông ấycho tôi ăn, có gì ăn nấy. Ông ấy cho tôi quần áo. Ông ấy mặc áo nâu, tôi cũngmặc áo nâu. Mùa màng, ông ấy cũng đi cày, đi gặt… tại sao ông ấy lại là địa chủ,bóc lột được?

Ông đội trưởng đội cải cách hỏi:

- Thế ông ấy có trả công xứng đáng cho ông không?

- Trả công gì ạ! Tôi đói, ông ấy cho ăn, tôi rét, ông ấy cho mặc. Tôi vào dukích, công an kháng chiến ông ấy gửi gạo tiếp tế…

Ông đội giải thích một thôi một hồi về việc lão bị bóc lột như thế nào. Lão Túccố căng tai ra nghe mà không hiểu. Ông đội nghiêm khắc nhắc nhở lão Túc về vaitrò của người công an viên cách mạng, lưu ý thêm việc lão chuẩn bị được kết nạp,chuẩn bị được giao giữ chức vụ quan trọng. Lão Túc thấy hoang mang quá. Lão hứasẽ phát huy tính tiền phong gương mẫu của người công an xung kích, quyết tâmvạch tội ác dã man của bọn địa chủ…

Hôm tổ chức đấu tố bọn địa chủ, cả làng kéo nhau ra sân đình. Ông Biên và mấyngười bị trói quặt cánh khỉ ở các cột tre đóng trên bãi cỏ. Đám đông người xúmxít xung quanh ra sức kêu gào, rỉa rói kể tội họ bóc lột, cưỡng hiếp, làm taysai cho đế quốc thực dân, quốc dân đảng... Lão Túc được mời lên bục phát biểu.Giọng lão run run, vẻ bức xúc, phẫn uất. Nhưng lão lại không kể tội, đấu tố ôngBiên như đã được đội “bồi dưỡng” trước. Mà ông nói về việc ông Biên đã nhặt đượclão nằm đói lả ở ngoài bờ đê thế nào, cho ăn, uống thế nào. Khi lão bị bệnh mộtsống, chín chết ông Biên nửa đêm cõng lão đi tìm thầy lang để cứu chữa. Rồi lãonói rõ thêm về chuyện bà Thêm tố cáo ông Biên “cướp” cái vại muối dưa của nhà bàấy thế nào.

- Chiều Ba mươi tết… - Giọng lão Túc bức bối: - Bà ấy đem cái vại đến khóc lóc,nói nhà không có nổi một đấu gạo nếp gói bánh cho con. Ông Biên đã bảo tôi xúccho bà ấy hai đấu gạo nếp, cho thêm nửa cân thịt. Ông ấy không nhận nhưng bà ấycứ để cái vại ở sân đùm gạo mang về. Thế mà bây giờ bà ấy lại xưng xưng nói ôngBiên cướp cái vại muối dưa của nhà bà ấy… thật là chuyện “gắp lửa bỏ tay người”,lấy oán báo ân…

Cả đám người đang say đấu tố sôi lên. Ông đội trưởng đội cải cách thét: “Quânphản động! Đồ… đồ… ôm đít bọn địa chủ phong kiến bóc lột…”. Ông ta ra lệnh khôngcho lão Túc nói nữa, tri hô du kích xông vào lôi lão xuống khỏi bục. Lão Túc bịxô đẩy ngã dúi dụi xuống đất. Mồm lão ngậm đầy cát bụi. Lão lồm cồm bò dậy.Trước khi bị lôi dẫn đi lão còn cố ngoái lại nhìn ông Biên. Lão thấy ông ấykhóc, nước mắt chảy dài trên gò má hốc hác nhem nhuốc.

Người ta xử bắn ông Biên cùng một địa chủ khác. Hồi ấy bà Chiều mới mười sáutuổi. Bà cũng có mặt ở buổi đấu tố ấy. Từ lâu, bà thầm mến anh thanh niên Túckhoẻ mạnh, đẹp giai, tốt tính, hay giúp đỡ người khác.
Đám ma ông Biên chỉ có vài người thân. Người ta sợ liên lụy với thành phần bọnđịa chủ, ác bá nên ngại. Bà vợ ông dắt thằng con trai bốn tuổi lặng lẽ đi sauquan tài. Lão Túc một mình đứng ra lo việc tang lễ của ông Biên, từ việc tắmrửa, băng bó vết thương do đạn bắn rồi khâm liệm cho ông. Rồi cũng một mình lãohì hụi đắp tròn nấm mộ cho ông Biên. Người vợ và thằng con ông Biên tả tơi, ráchnát đứng nhìn. Đó là một buổi chiều mùa Đông năm 1953. Sau bốn chín ngày, bà vợông Biên dắt thằng con nhỏ bỏ làng đi biệt tăm. Bà đưa con di cư vào Nam sinhsống.

Sau đó có sửa sai, người ta phục hồi lại thành phần trung nông cho ông Biên. Rồinhiều năm nữa qua đi ông Biên còn được tặng thưởng huân chương vì có công giúpcách mạng thời kỳ tiền khởi nghĩa và trong kháng chiến chống Pháp. Sau đám tangông Biên, lão Túc cũng đi mất. Lão lên mạn ngược làm thợ xẻ gỗ tà vẹt đường tàu.Đến khi phong trào thành lập hợp tác xã nông nghiệp mở rộng ở miền Bắc thì lãomới lò dò mò về làng.

Chả thấy lão có vợ con gì. Lão có hai sào ruộng của ôngcha để lại ở cánh đồng Ngòi. Lão làm đơn xin vào hợp tác xã nông nghiệp nhưngmãi chả thấy ban quản trị chấp thuận. Thành thử khi cả làng đã vào hợp tác xã,lao động tập thể, ngày ngày ra đồng, nghỉ giải lao, về nhà đều theo tiếng kẻngthì lão Túc vẫn là hộ làm ăn cá thể. Thửa ruộng tư hữu của lão nằm giữa cánhđồng hợp tác như một chướng ngại vật gây khó khăn cho việc cày bừa bằng máy, cấychăng dây thẳng hàng.

Thửa ruộng nằm giữa cánh đồng hợp tác cũng gây nhiều phiền hà cho lão Túc. Lãokhông thể dẫn nước qua ruộng của hợp tác xã về ruộng của mình. Ông đội trưởngđội sản xuất làng Trung cảnh cáo: “Ruộng hợp tác xã đã đổ phân bón lót, ôngkhông được lấy nước lấy hết chất của phân bón của tập thể đấy!”. Cũng may doruộng trũng, nước ngấm qua bờ nên hai sào ruộng của lão Túc cũng đủ nước cấy.Trời hạn hán thì thật khốn khổ. Khi đội sản xuất tổ chức tát nước lên đồng đôngvui như hội, tiếng hát, tiếng hò rộn ràng, cờ đỏ tung bay khắp cánh đồng thì lãoTúc lủi thủi một mình gánh nước từ ao ra đổ xuống ruộng cứu lúa.
 

**

Bà Chiều nhớ lại thời trẻ, gặp lại lão Túc từ mạn ngược trở về ở ngoài đầu lànghai người đã nói chuyện với nhau rất lâu. Bà thương lão Túc. Nhưng mối tình củahọ không thành. Ông bố bà gầm lên như hổ dữ khi biết hai người có tình ý vớinhau:

- Con kia! Mày là người hay là thứ gì mà dính vào cái thằng “tư nhân, tư hữu” ấyhả… mà mày đã hai nhăm hai sáu, ế thừa rồi đấy. Dính vào nó thì ai người ta còndám nhìn ngó đến mày nữa hả?

Bà cãi:

- Nhưng anh ấy là người tốt! Anh ấy…

“Bốp” một cái tát đau điếng khiến bà loạng choạng. Ông bố kiên quyết ngăn cấmnên bà và lão Túc cũng không thể thành duyên. Bà vẫn cố tìm cách giúp lão, khithì gánh nước, khi thì cấy, làm cỏ lúa. Ông đội trưởng đội sản xuất làng Trungrất bực vì năng xuất lúa ở thủa ruộng của lão Túc cao hơn hẳn những chân ruộngcủa hợp tác xã ở chung quanh.

Nhất định lão này đục lỗ ngầm rút hết tinh chấtphân đạm từ ruộng của hợp tác xã vào ruộng tư hữu của mình rồi. Ông cho công anxóm thường xuyên theo dõi. Để yên tâm hơn, ông đội trưởng còn cho đắp một bờvùng bờ thửa xung quanh ruộng nhà lão Túc thật chắc chắn. Ông mấy lần gặp bàChiều đe: “Cô không được giúp đỡ, tiếp tay cho phần tử tư nhân, tư hữu, nhất làkhông được phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất cho nónhé!”. Chả là hồi ấy bà Chiều là thành viên của đội kỹ thuật của hợp tác xã. Bàđược đi dự một lớp tập huấn kỹ thuật nông nghiệp trên huyện.

Thế nhưng việc thửa ruộng tư hữu của lão Túc năng xuất lúa và hoa màu vẫn caohơn ruộng của hợp tác xã đã thành vấn đề nghiêm trọng. Hợp tác xã nông nghiệp,làm ăn tập thể, khí thế sôi nổi, phấn khởi, lúa cấy chăng dây thẳng hàng, phânchuồng, phân hoá học bón đúng định kỳ, bèo hoa dâu vùi xuống gốc lúa thêm chấtđạm sinh học thế mà năng xuất cứ thấp. Thế là thế nào. Ông đội trưởng trực tiếpgặp lão Túc. Lão Túc e ngại mỗi khi có cán bộ đến gặp. Lão pha nước mời ông độitrưởng. Ông đội trưởng không uống. Có lẽ ông sợ uống nước của phần tử tư hữuchăng. Ông è è hắng giọng rồi chậm chạp nói:

- Ông Túc này! Hiện nay miền Bắc ta đang thẳng tiến lên chủ nghĩa xã hội, ra sứcchi viện cho công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam…

- Vâng…

- Vậy nên khí thế thi đua lao động rất mạnh mẽ…

- Vâng…

- Mọi người đều đồng lòng nhất trí…

- Vâng…

- Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt…

- Vâng…

- Vậy mà ông lại không ủng hộ…

- Vâng… - Lão Túc chợt giật nảy mình ấp úng vội chữa lại: - À… không… không… tôivẫn… vẫn ủng hộ… ủng hộ đấy chứ…

- Ủng hộ… mà tại sao ông vẫn làm như thế?

- Tôi có làm gì đâu ạ?

- Thì ruộng lúa của ông năng xuất chả gấp đôi của hợp tác xã là gì?
Lão Túc không hiểu. Ông đội trưởng giải thích:

- Ruộng lúa của ông năng xuất gấp hai ruộng hợp tác xã. Làm ăn tập thể có tổchức, có kỷ luật, có khí thế động viên sôi nổi mà lại không bằng cá nhân tư hữuthì còn ra làm sao nữa…

- Vâng…

- Vậy nên… ông cần xem lại. Như thế có phải là ảnh hưởng đến khí thế thi đua củatập thể xã viên đang hăng hái ra sức phấn đấu để tiến lên chủ nghĩa xã hội, chiviện cho miền Nam không?

- Vâng… vâng…

- Vậy ông nên xem lại cách làm ăn của mình, chống lại tập thể là không được đâu…

Lão Túc chột dạ khi nghe vậy. Khi ông đội trưởng ra về lão vẫn ngồi thừ ra ở cáichõng tre kê giữa nhà.

Thấy ruộng lúa của lão Túc để cỏ rậm bà Chiều sốt ruột. Lão này có tiếng là chămchỉ cơ mà. Bà vừa lội xuống định giúp lão vơ cỏ thì nghe tiếng lão phía saulưng:

- Thôi… cô lên ngay đi đừng làm nữa, mà từ bây giờ cứ mặc kệ tôi…
Ô hay! Hôm nay ông này làm sao thế này. Hay là ông ấy biết chuyện mình sắp đilấy chồng. Ông bố bà đã nhận trầu cau, gả bà cho một anh tính hơi dở dở nhà ởgiữa làng. Bà cầm nắm cỏ bước lên bờ rồi cúi mặt đi về làng.

Từ khi về nhà chồng, bà không còn dám đến giúp đỡ lão Túc cấy lúa, làm cỏ, sàngsảy như trước nữa. Nhưng bà vẫn theo dõi cuộc sống của lão, thương cảm cho cuộcđời của lão. Là hộ tư nhân, lão Túc không có chế độ bao cấp gì. Lão không có sổmua muối, mua dầu hoả, diêm, không có phiếu vải, phiếu thịt. Tất cả lão phải muangoài chợ đen mà không phải chợ đen lúc nào cũng có. Đã có lần bà phải dấu chồngcon đem cho lão nửa cần muối, lưng chai dầu hoả.

Có một chuyện bà còn nhớ mãi đó là chiều ba mươi tết năm Hợi. Bà đang gói bánhthì nghe tiếng trẻ con gọi nhau í ới: “Ra xem kẻ thịt trộm lợn bị bắt…”. Bà vộiđậy rá gạo nếp lại chạy ra kho của đội sản xuất. Lão Túc đang bị dân quân dẫngiải vào sân kho.

Lão mặc bộ quần áo nâu bạc phếch, trên vai vác một con lợn độ ba mươi cân đangcạo lông dở nham nhở. Tiết lợn chảy đỏ loè lưng áo vá của lão. Hai anh dân quâncầm súng CKC đi kèm hai bên. Lão Túc bị đưa vào giữa sân kho rộng mênh mông. Đâycó lẽ là lần đầu tiên lão bước chân vào cái sân kho của hợp tác xã. Trẻ conngười lớn xúm đông xem cảnh bắt giữ tên “thịt lợn trộm”. Con lợn lão đang váctrên vai là lợn do lão nuôi.

Thời bao cấp, nuôi được con lợn cũng không được phép thịt ăn, cũng không được tựđem bán ra ngoài chợ mà phải bán cho cửa hàng thực phẩm quốc doanh hoặc do hợptác xã thu mua dành cung cấp cho các cơ quan, cán bộ, bộ đội và những người cóphiếu mua thịt. Người nuôi có lợn bán được hợp tác xã ghi vào sổ, cuối năm sẽcăn cứ vào số thịt hơi đã bán cho nhà nước để phân phối lại, ghép vài nhà chothịt chung một con lợn để ăn tết. Nhà nào tự ý giết lợn là vi phạm pháp luật, là“thịt lợn trộm”. Lợn nuôi được muốn bán phải báo hợp tác xã và chờ đợi nhân viêncửa hàng thực phẩm quốc danh về thu mua cho.

Lão Túc đang thịt con lợn giò của mình nuôi được ở sau nhà thì bị dân quân ậpvào bắt quả tang. Con lợn cạo lông dở của lão bị tịch thu được chuyển ngay chocửa hàng thực phẩm quốc doanh. Tết năm ấy lão chỉ có thịt của một con vịt đựcgià.

Từ khi thực hiện khoán mười, sang cơ chế thị trường tự dưng lão Túc lại khôngcòn là thành phần chậm tiến nữa. Mấy sào ruộng nhà lão năng xuất càng cao hơn vìlão có vốn đầu tư. Rồi lão lại nhận thầu thêm mấy mẫu đầm lầy gần nhà vét bùnnuôi trồng thuỷ sản, làm trang trại. Nghe nói lão có người cháu ở miền Nam gửitiền về đầu tư thêm. Lão Túc giàu nhưng sống rất tiết kiệm. Lão không có giađình, vợ con gì. Lão thường xuyên đóng góp xây dựng các công trình phúc lợi củathôn, của xã và giúp đỡ bà con trong làng. Lão cũng dành tiền xây cho ông Biênmột ngôi mộ nhỏ, ốp đá hoa cương cẩn thận.


**
 

Đám ma lão Túc không có tiếngkhóc. Mấy đứa cháu họ đầu đội khăn tang nhưng mắt thì ráo hoảnh. Đám thợ chuyênkhóc mướn của phưòng bát âm thỉnh thoảng lại rú lên: “Ới ông ơi…” giọng ẽo ợtnửa như hát chèo, nửa giống ca cải lương, nghe vui hơn là buồn.

Chuẩn bị đưa ma thì có một chiếc xe tắc-xi lao nhanh vào cổng nhà lão Túc. Mọingười đổ xô ra nhìn. Cửa xe bật mở. Một ông mặc bộ com-lê thẳng nếp màu đen,tuổi độ sáu mươi tuổi bước xuống xe. Ông chào mọi người rồi bước vào nhà. Ông sesẽ gạt cái chiếu trải trước quan tài lão Túc sang một bên. Chiếu trải là để chongười làng đến viếng đứng vái hoặc quỳ lạy còn con cháu tang chủ vào viếng thìphải quỳ xuống đất hoặc nền nhà. Ông cúi gập người quỳ xuống nền nhà vái lạy.Đoạn, ông đứng dậy cầm cái mũ tết bằng bẹ chuối khô để trên nắp quan tài đội lênđầu mình, khoác cái áo xô ra bên ngoài bộ com-lê, cầm cây gậy tre tươi đứng raphía đầu quan tài cúi đầu chịu tang.

Mọi người ồn ào. Có ai đó nói vống ra phía ngoài cửa: “Chắc ông này là con vơ,cháu váo tít mù khơi ở đâu về chịu tang để đòi chia tài sản của lão Túc đây...”.Bà Chiều len vào nhà nhìn kỹ rồi khẽ thốt lên: “Ôi! Anh cu Thuyên con ôngBiên...”.

Đó chính là ông Thuyên, con “địa chủ” Biên bị xử tử năm nào. Ông là giám đốc mộtdoanh nghiệp lớn ở miền Nam. Ông vẫn chuyển tiền về giúp lão Túc nhận thầu nuôithả cá, làm trang trại. Ông vừa xuống máy bay thuê tắc-xi chạy gấp về thẳng làngTrung để kịp đưa lão Túc ra đồng...
 

Hà Nội, tháng 8/2009

Theo T.B
VOV