Năm 2011, Việt Nam rơi vàonhóm các nước có tỷ lệ lạm phát cao nhất thế giới, sau Kenya: 18,93%;Tazania: 19,8% và Venezuela: 26%. Năm nay, Chính phủ đặt mục tiêu kiềm chếlạm phát ở mức tăng khoảng 8 – 9% và mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn địnhkinh tế vĩ mô được đặt lên hàng đầu.
Năm 2011, Việt Nam rơi vàonhóm các nước có tỷ lệ lạm phát cao nhất thế giới, sau Kenya: 18,93%;Tazania: 19,8% và Venezuela: 26%. Năm nay, Chính phủ đặt mục tiêu kiềm chếlạm phát ở mức tăng khoảng 8 – 9% và mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn địnhkinh tế vĩ mô được đặt lên hàng đầu.
Kết quả là quýI/2012, chỉ số giá tiêu dùng đã giảm dần và có tốc độ tăng thấp nhất so vớicùng kỳ các năm trước. Tuy nhiên, theo đánh giá của Ủy ban Kinh tế của Quốchội, đâu là nguyên nhân sâu xa khiến lạm phát tăng cao chưa được nhìn nhậnmột cách thấu đáo.
ảnh minh họa
Cùngnguyên nhân nhưng lạm phát năm cao, năm thấp
Lý giải cho tỷ lệ lạm phát luôn ở mức cao,báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tưBùi Quang Vinh phân tích: “Chỉ số lạm phát ở nước ta cao hơn nhiều sovới các nước do có nguyên nhân sâu xa là cơ cấu kinh tế, mô hình tăngtrưởng chưa hợp lý, chậm được điều chỉnh và hiệu quả nền kinh tế thấp,trong đó cơ cấu đầu tư, nhất là đầu tư công lớn, nhưng dàn trải, hiệuquả thấp.
Nguyên nhân trực tiếp chủ yếu là do nhiềunăm qua nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khoá để đáp ứng yêu cầu tăngtrưởng kinh tế và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, bảođảm an sinh xã hội”.
Cũng theo Bộ trưởng Bùi Quang Vinh, giaiđoạn 2006-2010 tăng trưởng tín dụng bình quân của nước ta là 33,3%/năm,tổng phương tiện thanh toán tăng 30,2%/năm. Về chính sách tài khoá,ngoài việc duy trì bội chi NSNN ở mức 5% GDP trong nhiều năm (riêng năm2009 lên đến 6,9% để chống suy giảm, phục hồi tăng trưởng), còn pháthành trái phiếu Chính phủ với số vốn lớn.
Cùng với việc phải điều chỉnh giá một số mặthàng thiết yếu theo thị trường, nước ta phải nhập siêu nên đã "nhậpkhẩu” lạm phát khi giá thế giới tăng cao. Ngoài ra yếu tố tâm lý cũngtác động lớn đến lạm phát.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2011 tăng 18,58% so với năm 2010. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng cao hơn mức bình quân chung, là: nhóm hàng ăn và và dịch vụ ăn uống tăng tới 24,8%, trong đó, lương thực tăng gần 19%, thực phẩm tăng tới 27,4% và ăn uống ngoài gia đình tăng 23,4%; giáo dục tăng 20,4%; giao thông tăng trên 19%.
Để tiếp tục kiềm chế lạm phát, ổn định kinhtế vĩ mô, trong năm 2012, Chính phủ sẽ tập trung thực hiện chính sáchtiền tệ chặt chẽ, thận trọng theo hướng bảo đảm chủ động, linh hoạt, kếthợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chếlạm phát năm 2012 tăng khoảng 8-9%.
Tuy nhiên, theo phân tích của Ủy ban Kinhtế của Quốc hội, nhận định của Chính phủ về nguyên nhân khiến lạm phát tăngcao cần được đánh giá kỹ hơn, sâu sắc hơn vì: ‘‘Trong vài năm qua, vẫn vớicác nguyên nhân này mà lạm phát không ổn định, có năm rất cao, có năm lạithấp”.
Dẫn chứng cho nhận định này, Ủy ban Kinh tếcho biết, năm 2011, mặc dù đã chủ động kiểm soát tổng phương tiện thanhtoán, tín dụng cho nền kinh tế tăng thấp hơn nhiều so với các năm trướcvà quá thấp so với mức công bố định hướng điều hành chính sách và nhucầu hợp lý của nền kinh tế; mặt khác giá hàng hóa thế giới năm 2011 cũngcó xu hướng giảm nhưng chỉ số giá tiêu dùng cả năm vẫn ở mức rất caotrong 20 năm qua.
Lạm phát thấp hơn nhiều so với dựbáo: cũng tiềm ẩn nguy cơ
Đánh giá tình hình kinh tế, xã hội quýI/2012, Bộ trưởng Kế hoạch đầu tư cho biết: nhìn chung, giá cả, lạm phátđã có xu hướng giảm dần, bước đầu ổn định. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)trong quý I/2012 đã giảm dần và có tốc độ tăng thấp nhất so với cùng kỳcác năm trước. CPI tháng 3/2012 tăng khoảng 2,55%, thấp hơn rất nhiều sovới cùng kỳ (cùng kỳ năm 2011 tăng 6,12%; năm 2010: 4,12%).
Giải pháp được Chính phủ đặt ra cho thờigian tới là tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, hiệu quả, đồngthời, điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách tiềntệ, nhất là các loại lãi suất và lượng tiền cung ứng để góp phần kiểm soátlạm phát, nâng cao chất lượng tín dụng, bảo đảm khả năng thanh khoản, giảmmặt bằng lãi suất và tỷ lệ nợ xấu.
Chủ động điều hành và kiểm soát chặt chẽtốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán, tăng trưởng tín dụng để bảo đảm tốcđộ tăng trưởng tín dụng năm 2012 khoảng 15 - 17%.
Tiếp tục thực hiện chính sách tín dụng hỗtrợ nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, sản xuất hàng xuấtkhẩu, công nghiệp chế biến. Nghiên cứu, áp dụng giải pháp khoanh nợ đối vớisố doanh nghiệp tốt, có tiềm năng phát triển nhưng đang gặp khó khăn…
Mặc dù rất quan ngại với tình hình lạm phátnhưng việc chỉ số CPI tháng 3/2012 tăng 2,55%, thấp nhất trong vào 3 nămqua, theo các chuyên gia kinh tế, cũng không phải là tín hiệu vui. Đặcbiệt trong tháng 3 giá xăng được điều chỉnh tăng 10% nhưng do giá lươngthực và thực phẩm chững lại nên lạm phát tháng 3 chỉ ở mức 0,16% thấphơn nhiều so với dự báo của các cơ quan và các chuyên gia kinh tế.
Nhiều Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hộinhận định: “tăng CPI ở mức thấp cũng thể hiện những hậu quả khó khăn từnăm 2011, đặc biệt là suy giảm tổng cầu đang tác động mạnh mẽ đến kinhtế nước ta trong quý I/2012”. Có ý kiến cho rằng, từ quý II/2012, nềnkinh tế sẽ đứng trước sức ép ngày càng tăng về tăng giá một số hàng hóavà có thể lặp lại tình trạng lương tăng - giá tăng của những năm trướcđây.
Trên thực tế, mặc dù lạm phát vẫn ở mức cao,song trong qúy I/2012, Chính phủ các nước châu Á, như Thái Lan,Indonexia, Malaysia, Ấn Độ đã hạ lãi suất hoặc không thay đổi lãi suấtđể bảo vệ cho nền kinh tế khỏi tác động của khủng hoảng nợ công châu Âu.Nhiều chuyên gia kinh tế nhận định, xu hướng nới lỏng chính sách tiền tệđang rõ nét ở châu Á trong bối cảnh giá dầu tăng trở lại thời gian quasẽ làm tăng áp lực lạm phát lên khu vực này trong thời gian tới.
Quý I/2012, GDP tăng trưởng ở mức 4% thấp nhất trong vòng hai năm trở lại đây (quý I/2010 tăng 5,84%, quý I/2011 tăng 5,57%), thấp hơn dự kiến của Chính phủ là 5%-6% và khó đạt mục tiêu tăng trưởng 6%-6,5% của cả năm 2012.