Vì những tục lệ để lại từnghìn năm trước mà có nhiều phụ nữ ở bản này phải lỡ dở chuyện tìnhduyên.

Căn nhà gỗ lợp mái tranh nằm buồnthiu giữa sườn đồi vắng. Từng cột khói trắng nhàn nhã từ gian bếp lụp xụp baylên không trung tạo thành những hình thù kỳ dị. Trên rừng, cây đào, cây mơ đãbắt đầu lác đác nở hoa, con chim én ngọt tiếng đang gọi mùa xuân tới, trai gáituổi cập kê trong làng dưới bản bắt đầu nghĩ đến chuyện tỏ tình.

Lường Thị Đức, xã Tân Minh, huyệnĐà Bắc, Hòa Bình, năm nay vừa tròn 18 tuổi. Cô vừa chạy xuống xã để lấy áo cóm,váy xòe đặt may từ hai tuần trước. Má cô ửng hồng, mắt long lanh, tiếng hát lanhlảnh vút cao giữa rừng chiều. Chỉ hai tuần nữa Đức sẽ theo chồng về làm vợ dướibản Trầm Trong. Đức tung tăng lên nhà, định giở váy áo ra khoe với mẹ. Bà LườngThị Cộm ngồi im lặng như khúc gốc đầu hồi nhà, những nếp nhăn như hằn sâu hơntrên khuôn mặt già nua. Ngước lên nhìn cô con gái út, bà Cộm thở dài: "Bênnhà trai vừa sang con à, họ thách cưới đôi trâu, đôi lợn. Nhà mình nghèo, lấyđây ra trâu, lợn cho con đem sang nhà bên ấy bây giờ". Nghe mẹ nói, Đức rơmrớm nước mắt, cái tục xưa không chỉ làm khổ cô mà cả những cô gái khác.

Tục lệ giày vò đời những ngườiphụ nữ

Người dân tộc Tày từ xưa vốn theochế độ mẫu hệ, người phụ nữ thường là lao động chính, nắm vai trò chủ chốt tronggia đình. Sau ngày cưới, chàng trai phải ở rể bên nhà vợ. Theo suy nghĩ truyềnthống, nhà trai đã bị "mất người", để "đền bù" sự mất mát này, họ đưa ra lờithách cưới cho phía nhà gái. Người ta không thách tiền, nhưng thách những thứ cólẽ còn quý hơn tiền đối với đồng bào người dân tộc. Đó là những công cụ laođộng, sản xuất "đầu cơ nghiệp" như trâu, dê, lợn, thóc gạo, cày cuốc...

Con đi lấy chồng, mẹ khóc cha lo
Bà Cộm bên đống chăn gối chuẩn bị cho con gái về nhà chồng

Trong chòm bản chỉ có mấy chụcnóc nhà, sự tuân thủ lệ làng là một việc làm tối cần thiết với tất cả người dân.Chính vì thế, dù không ai muốn nhưng tục thách cưới này vẫn tồn tại từ nhiều nămqua. Đức kể: "Theo phong tục cổ, những gia đình người Tày có con gái từ mườituổi trở lên đã phải lên nương trồng bông dệt vải. Đến khi về nhà chồng, cô dâuphải biếu ông bà nội, ngoại, bố mẹ chồng, cô, dì, chú bác bên nhà chồng mỗi giađình một đôi gối, một cái chăn bông. Nếu anh em chồng chưa có gia đình, mỗingười sẽ được cô dâu tặng những lễ vật này".

Tục lệ vẫn còn nguyên, nhưng đếngiờ, con gái lên mười không còn đi trồng bông dệt vải nữa. Học qua dăm ba conchữ, họ theo nhau đi tứ xứ làm thuê. Đến tuổi gả chồng, họ về quê khi đã có lưngvốn đủ để mua 10 chiếc chăn bông, 5 chiếc đệm và 50 chiếc gối làm hành lý theochồng. Với họ, như thế coi như đã hoàn thành trách nhiệm của một người con tronggia đình khi ra ở riêng. Những tài sản lớn như trâu bò thì bố mẹ phải nuôi,không nuôi phải vay tiền mua. Nếu không có, con dâu về nhà chồng sẽ bị cả họ nhàchồng cười chê. Người con dâu ấy sống với chồng rồi cũng sẽ chẳng sung sướng gìbởi những định kiến nặng nề ấy.

Gả con xong, tiền cạn, nợ nầnchồng chất

Bây giờ, tục xưa đã mai một, chúrể không nhất thiết phải ở rể nhà gái nữa. Nhà trai đã không còn bị "mất người"như trước nhưng tục thách cưới vẫn còn và nó còn "nặng" hơn xưa gấp nhiều lần.Của hồi môn thông thường của nhà gái phải có một con trâu, một con lợn nái, mộtcon dê, 12 con gà và 4 bao tải thóc. Tính sơ sơ, số tiền để sắm sửa những lễ vậtnày khoảng 20 triệu đồng. Đó là chưa kể số lợn, gà, gạo rượu cho khách ăn uốngròng rã trong hai ngày cưới và dạm hỏi.

Trái với nhà gái, nhà trai lạinhẹ nhàng hơn rất nhiều. Họ chỉ phải đưa đến nhà gái trong lễ đón dâu nhiều thìba triệu đồng, ít chỉ khoảng một triệu đồng. Bà Cộm sinh được ba người con gái,hai cô lớn đã đi lấy chồng, tiền bạc, trâu bò theo con đi hết. Đến lượt Đức, nhàsàn trống hoác, món thách cưới của nhà trai như tảng đá núi đè nặng lên gia đìnhvốn đã quá nghèo này.

Người già dưới bản Trầm Trong chobiết: "Phong tục thách của người Tày khi xưa vốn chỉ mang nghĩa tượng trưng,không nặng về vật chất. Người con gái trước khi đi lấy chồng chỉ phải lo nhữngdụng cụ lao động sản xuất đơn so như cái càym cái cuốc để đi làm nương rẫy thôi.Nhà nào giàu thì có thêm đôi lợn giống, mấy cặp gà để làm vốn sinh nhai khi vềnhà mới".

Thế nhưng, lẽ đời "con gà tứcnhau tiếng gáy", phần đông đồng bào dân tộc thiểu số ở đây đều không chịu thuakém nhau. Họ đua nhau thể hiện "tiềm lực kinh tế" của gia đình mình trong ngàycưới con bằng những món lễ vật có khi bằng nửa gia tài. Nhà còn nghèo, bữa cơmcó khi còn phải độn khoai sắn nhưng nhà gái sẵn sàng vay mượn, chấp nhận mang nợđể "thỏa mãn" lời thách cưới của bên thông gia. Nhiều khi bên nhà trai thươngnhà gái nghèo quá nhưng họ vẫn không dám miễn cho nhau khoản này.

Nhà gái cũng vậy, dù thế nào đinữa họ cũng cố lo đủ của hồi môn cho con để khỏi ngại với họ hàng hai bên. Thànhthử, dù muốn dù không, hủ tục này vẫn nghiễm nhiên tồn tại.

Anh Lò Văn Sủng, ở cuối bản Mítcó ba cô con gái đang đến tuổi cập kê, cho biết: "Lễ cưới cho con gái, tínhsơ sơ đồ lễ vật thôi cũng mất khoảng hai mươi triệu đồng rồi. Mình lo lắm vì nhàít trâu, ít bò, nhưng đã là tục lệ dù sao mình cũng phải theo, không làm thếngười làng cười chết. Với lại, mình cũng có con trai, sau này chúng cũng phải đilấy vợ nữa chứ".

Cũng chỉ vì có ba cô con gái, đãgần chục năm nay, vợ chồng anh Sủng phải nai lưng trên nương trồng ngô, trồngsắn, chắt chiu từng đồng mua trâu, dê, lợn, gà đem lên núi nuôi chờ ngày con đilấy chồng. Dù rất thích chiếc ti vi đen trắng có vài trăm nghìn đồng, nhưng anhkhông dám mua. Chia tay về rặng núi phía xa, anh Sủng bảo: "Đến giờ mình cũngchỉ đủ để lo cho con đầu thôi. Hai đứa em chẳng biết tính thế nào, mà vay mượnbiết bao giờ mới trả được".

Cả đời lận đận vì tiền cướichồng

Cũng vì những tập tục tự phát nàymà nhiều phụ nữ nhà nghèo không có trâu, có lợn đã không thể nào lấy được chồng.Dù đẹp nết, đẹp người, nhưng họ đành ngậm đắng nuốt cay bấu víu đời mình vàonhững người đàn ông lớn tuổi, đã mấy lần đò.

Dưới bóng xâm xẩm của buổi chiềunhợt nhạt, chúng tôi tìm vào thăm gia đình chị Hà Thị Tích ở bản Trầm Trong. Từtrên triền dốc, đã nghe thấy tiếng giã gạo của chị Tích cô đơn, lọt thỏm giữađồi rừng. Trong cái lạnh buốt giữa miền sơn cước, chị Tích vẫn chân trần, manháo mỏng nhàu nhĩ, trên lưng địu con cần mẫn giã gạo.

Hỏi tuổi chị và tên các con, chịTích ngơ ngác, bối rối. Chị chỉ nhớ mình 34-35 tuổi gì đó, tên các con chị phảinghĩ một lúc mới có thể trả lời: "À, nhớ rồi, bọn nó tên Lường Thị Hải và Hà VănTân". Hai đứa con khác họ, đó là một câu chuyện dài đầy trắc trở của người đànbà miền núi này. Tất cả cũng chỉ vì nhà chị nghèo quá, không có nhiều trâu, bò,lợn gà để nhận lời thách cưới của gia đình người yêu.

Lúc 17 tuổi, chị Tích cũng đẹpmặn mòi, một mình quảy hai bao thóc trên lưng chạy băng băng giữa đồng. Tối tối,đầu hồi nhà Tích cũng dập dìu đám trai làng đến rủ xuống xã xem văn nghệ. Tấtnhiên, trong lòng cô gái trẻ đã có ý trung nhân, chỉ chờ hết mùa gạo sẽ báo chogia đình tính chuyện trăm năm. Thế nhưng, gia đình nhà trai thách cưới quá cao,nhà Tích nghèo nhất bản, bố mẹ lại già yếu bệnh tật quanh năm. Tích ngậm ngùinhìn người yêu đi lấy người con gái khác.

Được hai năm, Tích buông xuôi gậtđầu đồng ý lấy người đàn ông đã có tới... sáu đời vợ, suốt ngày say rượu. Thếrồi người đàn ông ấy cũng bỏ đi, để lại cho Tích đứa con còn nằm trong nôi.Người đàn ông thứ hai cũng chỉ đến ở với mẹ con Tích vài tháng rồi bỏ đi nốt.Đứa con thứ hai chào đời lại chịu số phận không cha. Hai đứa con khác họ, haiđời chồng ngắn ngủi, một nỗi cô đơn đến thắt lòng trong cuộc đời người đàn bà.

Đến bao giờ hủ tục được dẹpbỏ?

Chia tay chúng tôi, chị thở dàibảo: "Tôi chỉ cần một gia đình giản đơn mà sao khó quá. Khổ lắm các chú à,mình cũng có một con gái, nhà nghèo thế này, chẳng biết sau này có lấy nổi chồngkhông". Bản Mít, bản Trầm Trong mịt mù trong mây núi, thoảng tiếng mõ trâubìa rừng buồn đến nao lòng. Mùa xuân có lẽ đang về bên kia vách núi, mùa củanhững đôi tân lang tân nương xây dựng tổ ấm. Thế nhưng nơi đây, cũng bắt đầu chomột mùa lo toan, quay quắt nợ nần vì một thứ hủ tục cần được dẹp bỏ.

Theo Con đi lấy chồng, mẹ khóc cha lo