Bữa cơm thiếu rau như người đau thiếu thuốc. Rau luộc, rau hấp đã mát mắt, ấm lòng rồi. Còn rau nướng thì sao?
Nhiều bạn trẻ ngạc nhiên khi nghe nói đến cụm từ rau nướng. Họ không tin
có chuyện, đem thui rau trên bếp than nóng hừng hực mà vẫn còn mọng
nước.
Có người mới nhìn ống đựng rau, đã đoán ngay đó là ... cơm lam. Thoát
trông, ống tre cũng bị cháy xém. Thêm một chiếc khăn rằn “choàng cổ” nó,
cho điệu đà!
Nước rau màu xanh lam, tỏa khói la đà, thoảng mùi hăng nhẹ và phảng
phất hương nhựa tre tươi. Giầm thêm trái ớt chim xanh vào chén nước nhỏ
xíu. Vừa thổi vừa húp từng ngụm nhỏ. Nghe ngòn ngọt, cay cay, thơm thơm
lẫn đăng đắng nhưng hậu vị rất thanh. Xong hiệp 1 (húp nước rau) người
sảng khoái lạ.
Tiếp tục vung đũa vào hiệp 2, “tiêu diệt” mớ rau tập tàng nướng: rau má,
rau đắng, khổ qua non bào, bông so đũa... nằm phơi phới cạnh nồi kho
quẹt hoặc chén mắm cái mời gọi. Vị rau ngọt lạ, nên thiếu cơm lúc nào
không hay.
Theo Đông y, những rau cỏ (ăn được) chủ vị đắng thanh vừa kể đều trợ gan, giúp gan giải độc cho cơ thể.
Đồng thời theo sách y thực (ăn thay thuốc) Nguyễn Phúc Tộc Dược Minh Y
Kính, dịch từ ống tre non nướng gọi là “trúc liêu giao”. Chất thuốc trời
cho này, xưa được các thầy thuốc vương triều Nguyễn dùng trong gia vị
ăn uống, hương liệu xông và bào chế mỹ phẩm. Nó giúp hỗ trợ đường tiêu
hóa, khỏe thận, đẹp da.
Thật ra, đây cũng là món cách điệu từ canh thụt của đồng bào Tây Nguyên.
Lúc đi rừng, họ thường mang theo nhúm muối hột, cái rựa trong gùi. Lao
động vất vả cả buổi, khi nghe “kiến bò trong bụng” (đói), họ đào vài ba
củ khoai mài hoặc củ nần, chặt dăm ba đọt mây ngọt và đắng, hái nắm lá
bép, bứt mươi lá ớt rừng cùng mấy trái chín hườm... Nhét (thụt) tất cả
vào ống tre lồ ô tươi, hứng thêm tí nước suối, thả hạt muối vào, rồi
dùng lá chuối rừng bịt kín miệng. Nướng lên. Có ngay bữa ăn ngon lành!