Cua đồng là món ăn dân dã quenthuộc của người Việt Nam và được y học cổ truyền dùng làm thuốc từ xa xưa. Loàicua này có các họ như Potamidae, Graspidae, Parathelphusidae.

Tại Việt Nam, thường gặp nhất làcua đồng có tên khoa học Somanniathelphusa sinensis sinensis H.Milne – Edwardsthuộc họ Parathelphusidae, sống phổ biến ở các vùng nước ngọt, nhất là tại cácruộng lúa thuộc đồng bằng, trung du và miền núi.

Món bổ, thuốc hay

Về dinh dưỡng: sách Câythuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam do viện Dược liệu (bộ Y tế) ấn hành chobiết, trong 100g thịt cua đồng chứa 12,3% protid; 3,3% lipid; 5.040mg% Ca;430mg% P; 4,7mg% Fe; 0,01mg% vitamin B1; 0,51mg% vitamin B2; 2,1mg% vitamin PP;0,12mg% vitamin B6; 125mg% cholesterol; 0,25mg% melatonin... Đặc biệt, mai cuacó nhiều chất chitin.

Theo kinh nghiệm dân gian, để trẻnhỏ cứng cáp, nhanh biết đi, người ta dùng cua đồng làm sạch, bỏ chân, càng,mai, yếm, chỉ lấy mình cua, rang nhỏ lửa cho vàng và khô. Giã nhỏ, rây lấy bộtmịn. Hàng ngày, dùng bột cua quấy với bột gạo cho trẻ ăn, mỗi lần 1 – 2 thìanhỏ. 

Cua đồng làm thuốc

Về dược tính: trong Lĩnhnam bản thảo, Hải Thượng Lãn Ông ghi: “Điền giải là tên gọi cua đồng. Ngọt lạnh,ít độc hay sinh phong. Nối gân, tiếp xương, chữa phong nhiệt. Trừ mụn độc lở,huyết kết thông”. Sách Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh ghi: điền giải có vị mặn,mùi tanh, tính hàn, hơi độc, tác dụng liền gân, nối xương, trị nhiệt tả, ngộđộc, máu kết cục, lở ghẻ.

Sách Dược tính chỉ nam của ôngghi: điền giải có tác dụng tán tà nhiệt trong lồng ngực, thông được kinh mạch,làm cho năm tạng khỏi buồn phiền, giải được độc do thức ăn, liền được gân, thêmsức cho xương, bổ ích khí lực, tống được các vật kết đọng trong người, phá đượcchứng ứ huyết do vấp ngã hoặc bị đánh chấn thương, sốt rét... xMột số thử nghiệmtrong phòng nghiên cứu ở Nhật ghi nhận, dung dịch trích bằng ether hay ethanoltừ cua đồng có hoạt tính làm hạ huyết áp ở mèo, làm co thắt bắp thịt tử cung nơichuột, đồng thời kích thích sự bài tiết của các hạch nội tiết.

Nguy cơ nhiễm sán

Cua đồng tuy là món ăn bổ dưỡng(canh cua đồng là món canh giải nhiệt, kích thích ăn uống, dễ tiêu hoá thức ăn),vị thuốc hay (y học hiện đại xác nhận cua đồng tốt cho trẻ còi xương hay ngườibị loãng xương) nhưng vẫn tiềm ẩn những nguy hại cho sức khoẻ.

Một số sách đông y hướng dẫn bàithuốc uống nước vắt từ cua đồng giã nhuyễn trị bầm tím do té ngã ứ huyết, uốngnước giã nhuyễn cua đồng sống để trị ngộ độc do ăn khoai mì (sắn)... là nhữngcách hết sức nguy hiểm vì dễ nhiễm ký sinh trùng.

Theo khuyến cáo của cơ quan y tếCalifornia (Hoa Kỳ), ăn cua đồng sống hay nấu chưa chín có thể bị bệnh sán láphổi do ký sinh trùng Paragonimus. Ký sinh trùng này sống bám trên cua đồng, khivào tới ruột người, gây ra các triệu chứng đau bụng, tiêu chảy... sau đó chúngsang phổi gây ho, đau tức ngực, khó thở, nóng sốt, nổi mề đay...

Nếu sán cư trú ở não thì thườnggây cơn động kinh, ở gan thì tạo ápxe gan. Tại Việt Nam, từng có một số ngườidân ở vùng Thanh Hoá, Bắc Giang, Nghệ An... vì muốn dẻo dai trong các cuộc thiđấu vật nên đã uống nước cua đồng sống và bị bệnh sán lá phổi. Loại cua đồng ănđược thường có hai càng to và tám chân (ngoe).

Tuy nhiên, cũng có loại chỉ sáuhoặc bốn chân, phải cảnh giác với loại này. Trong Nam dược thần hiệu, Tuệ Tĩnhđã lưu ý: “Cua đồng thì kiêng thứ sáu chân hoặc bốn chân, mắt đỏ, bụng dướicó lông, trong bụng có xương, đầu lưng có chấm sao, chân có khoang thì chớ ăn màhại người, nên cẩn thận”.

Ai không nên ăn cua đồng?

Do cua đồng có tác dụng phá khối u, tống xuất khối cục tồn đọng nên đông y khuyên phụ nữ có thai tránh ăn cua đồng. Người đau ốm mới khoẻ, hệ thống tiêu hoá còn yếu cũng không nên ăn. Người có biểu hiện tỳ vị hư hàn (cảm giác sợ lạnh) cũng cần hạn chế. Nếu bị tiêu chảy, không ăn cua đồng. Gạch cua có nhiều cholesterol, nên người huyết áp cao, bệnh tim mạch cần hạn chế dùng. Khi ăn cua, nên ăn cùng lá tía tô, gừng để làm giảm bớt tính hàn. Cua đồng cũng chứa nhiều sodium và purines nên không thích hợp cho người bị bệnh gút.

Theo SGTT