Theo ông Trần DuLịch, ủy viên Ủy ban Kinh tế Quốc hội, kinh tế đã chạm đáy và bắt đầu phục hồi,vì vậy doanh nghiệp cần sẵn sàng kế hoạch cho chu kỳ mới theo hướng quan tâmnhiều hơn vào lĩnh vực cốt lõi của mình.

- Lạm phát tiếp tục giảm, sản xuất có dấu hiệutăng trở lại và tín dụng cho nền kinh tế bớt âm. Theo ông những tín hiệu này nóilên điều gì?

- Xét về tình hìnhvĩ mô, tôi cho rằng những khó khăn của kinh tế Việt Nam đã chạm đáy rồi và hiệngiờ là trong giai đoạn hồi phục.

Riêng chỉ số CPI 6tháng đầu năm giảm ở mức thấp, cần nhìn nhận rằng đây không phải do chi phí sảnxuất giảm mà là kết quả tổng cầu giảm vì. Do đó, tất cả những yếu tố này chỉ mang tính tạm thời, nếuViệt Nam không cẩn thận, lạm phát rất dễ bùng phát. Khi đó, cái vòng luẩn quẩnchống lạm phát lại giảm phát, đến khi chống giảm phát lại lạm phát đã diễn ra từnăm 2007 sẽ tái diễn thì rất nguy hiểm.

Tiến sĩ Lịch cho rằng kinh tế Việt Nam đã chạm đáy và đnag hồi phục. Ảnh: Hoàng Hà

- Thưa ông,dựa trên những cơ sở nào ông cho là kinh tế Việt Nam đã chạm đáy và đang trongquá trình hồi phục?

- Tôi có cơ sở vềnhận định này. Đó là tăng trưởng kinh tế quý II ước đạt 4,5%, cao hơn mức 4% củaquý I (mức đáy và không thể thấp hơn). Chỉ số phát triển doanh nghiệp cũng bắtđầu bớt tiêu cực hơn. 5 tháng đầu năm, có khoảng 21.800 doanh nghiệp giải thể,ngừng hoạt động, tăng 9,5%, so với cùng kỳ. Tuy nhiên, riêng tháng 5, số doanhnghiệp “chết” đã bắt đầu giảm khoảng 10% so với tháng 4.

Ngoài ra, hàng tồnkho của doanh nghiệp cũng có xu hướng giảm dần, từ mức cao 34,9% của tháng 3xuống lần lượt 32,1% và 29,4% trong tháng 4 và 5. Và đến 1/6 chỉ còn khoảng26,4%.

Lãi suất cho vaytính đến 21/6 cũng đã giảm gần 3%, tiền đồng được cải thiện và ổn định hơnnhiều. Nhu cầu tiêu dùng bắt đầu quay trở lại, kích thích sản xuất. Một số yếutố khách quan như giá dầu thô đã ổn định, kinh tế Mỹ cũng đã khởi sắc và điều đógiúp Việt Nam tăng xuất khẩu, đầu tư. Rõ ràng khủng hoảng đã chạm đáy và sự phụchồi đang diễn ra.

- Vậy để đónđầu xu hướng phục hồi của nền kinh tế, theo ông Việt Nam nên làm gì?

-Trước hết, vềphía doanh nghiệp cần sẵn sàng chuẩn bị cho chu kỳ tới, khi khó khăn qua đi sẽcó nguồn lực tốt để tăng tốc phát triển. Trong đó, một nguyên tắc cần ghi nhớ làxây dựng chiến lược phát triển hệ thống càng đơn giản càng tốt, tối đa hóa hoạtđộng để tập trung vào lĩnh vực kinh doanh cốt lõi.

Vấn đề quan trọnglà doanh nghiệp cần nghiêm túc đánh giá lại năng lực của mình như: sử dụng nhânlực, nguồn vốn có hợp lý hay không, sản phẩm đã phù hợp với thị trường chưa…, từđó đưa ra chiến lược phù hợp với thời điểm hiện tại.

Về phía cơ quanquản lý cần nhìn nhận rằng với tình hình này, nếu không có động tĩnh can thiệpgì thì CPI đến hết năm nay chỉ tăng khoảng 5-6%. Do đó, về chính sách, chúng tacần chủ trương chuyển hướng chống lạm phát sang chủ động đưa CPI lên 8% vào cuốinăm nay. Lúc đó, chính sách tài khóa sẽ có dư địa 3% để đưa tăng trưởng kinh tếlên khoảng 5,5% là đạt yêu cầu.

Tuy nhiên, đểtránh rơi vào vòng luẩn quẩn, chống lạm phát lại suy giảm, chống suy giảm lạităng lạm phát như tôi đã nêu... thì lần này Chính phủ có sự đổi mới cách làm.Theo đó, mặc cho nền kinh tế "kêu than" dữ dội nhưng Thủ tướng chủ trương chỉtăng tổng cầu trong kế hoạch chứ không phá kế hoạch. Thứ hai là chỉ hỗ trợ thịtrường chứ không cứu doanh nghiệp bằng biện pháp hỗ trợ lãi suất như năm 2009.

Theo quan điểm cánhân tôi, để hỗ trợ nền kinh tế, Chính phủ hiện nay đang có dư địa rất lớn từhai công cụ là tiền tệ và tài khóa chứ không phải bế tắc như năm ngoái. Xét vềchính sách tiền tệ, tính tới 21/6, tăng trưởng tín dụng chỉ mới trên dưới 0%.Như vậy, kế hoạch tăng trưởng 15-17% vẫn còn nguyên. Giả sử năm nay Việt Nam chỉcần tăng trưởng tín dụng 10% thì từ giờ đến cuối năm, mỗi tháng sẽ cung ra thịtrường khoảng 50.000 tỷ đồng.

Thứ hai về nguồnngân sách (gồm đầu tư của nhà nước và trái phiếu), từ nay đến cuối năm mỗi thángcó thể bơm ra hơn 21.000 tỷ đồng. Vậy tổng cộng hai khoảng này mỗi tháng ViệtNam có thể bơm ra nền kinh tế 71.000 tỷ đồng để kích thích sản xuất, tăng trưởngGDP.

- Với nguồnlực lớn như vậy, lãi suất lại liên tục được Ngân hàng Nhà nước cắt giảm trongkhoảng thời gian vừa qua, nhưng thưa ông vì sao nền kinh tế vẫn thiếu vốn?

- Theo tôi đó làdo Việt Nam đang vướng "cục máu đông" là nợ xấu và sức mua thị trường suy yếu.Hai yếu tố này đã chặn lại dòng vốn ra thị trường. Từ nay đến cuối năm làm saophải hấp thụ được lượng tiền 71.000 tỷ đồng mỗi tháng mới là vấn đề mấu chốt đểthúc đẩy tăng trưởng.

Muốn vậy, trên gócđộ chính sách tiền tệ, ngân hàng phải tập trung cho nông nghiệp nông thôn và gỡkhó dần cho bất động sản. Riêng cục máu đông nợ xấu, (không xét đến yếu tố thànhlập công ty mua bán nợ Quốc gia 100.000 tỷ) thì trước hết, bản thân các ngânhàng phải có trách nhiệm giải quyết.

Theo đó, tôi chorằng, những nhà băng trong nhóm G14 có lãi, cần trích lập dự phòng 70% cho nợxấu, phần còn lại các nhà băng khác dùng công cụ mua nợ để giảm nợ xấu xuống.Bằng mọi giá, trong năm nay phải giảm cục máu đông này thì mới mong khai thôngđược nguồn vốn.

- Hiện nay,việc Ngân hàng Nhà nước cho các nhà băng được tự do thỏa thuận lãi suất tiếtkiệm dài hạn với khách hàng nhưng vẫn siết kỳ hạn ngắn khiến nhiều người lo ngạixảy ra tình trạng lách luật và làm méo mó thị trường. Ông nhận định sao về chủtrương này?

- Tuy hiện nay vấnđề thanh khoản của hệ thống ngân hàng cơ bản đã được giải quyết, nhưng vẫn còncăng thẳng đối với một vài nhà băng nhỏ. Do đó, nếu tự do hóa lãi suất vào thờiđiểm này, các nhà băng yếu kém có thể đẩy cao lãi suất huy động để hút vốn bùđắp thanh khoản, châm ngòi cho cuộc đua lãi suất. Khi đó, mặt bằng chung sẽ bịđẩy lên cao càng gây khó cho nền kinh tế.

Theo tôi, chỉ khinào giải quyết được cục máu đông nợ xấu và xử lý triệt để các ngân hàng yếu kémthì mới dỡ trần lãi suất được. Và đến khi kinh tế thực sự ổn định thì phải bỏcác biện pháp hành chính, trả lại theo cơ chế thị trường.

Theo Vnexpress