Không chỉ đến khi Vinashin sụp đổ, những bất cập của môhình tập đoàn kinh tế Nhà nước mới bộc lộ. Trước đó, các chuyên gia kinh tếđã cảnh báo nhiều về hiện tượng phình to quá mức của các tập đoàn này dođược hưởng nhiều đặc quyền.
Trong bảng xếp hạng 1.000 doanh nghiệp (DN) nộp thuế lớn nhất VN trong 3năm qua vừa được Công ty Cổ phần Báo cáo Đánh giá VN (Vietnam Report)công bố, nhiều tập đoàn, tổng công ty Nhà nước đã không có mặt.
Trong số này có những tên tuổi lớn như Tập đoàn Bưu chính Viễn thông VNvà tất nhiên là cả Vinashin vì lý do số thuế thu nhập DN thấp hơn 9.000tỉ đồng hoặc nợ đọng thuế...
Đầu tư cao, đóng góp thấp
TS Nguyễn Quang A nhìn nhận: DN Nhà nước luôn đứng đầu về sở hữu nguồnlực nhưng lại đứng cuối cùng về đóng góp cho GDP, tạo công ăn việc làm,hiệu quả sử dụng vốn... Mức thuế thu nhập DN thu được của các DN này chỉchiếm 7% tổng thu ngân sách Nhà nước.
Theo Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia (Bộ Kếhoạch và Đầu tư), tỉ trọng vốn đầu tư của DN Nhà nước giảm từ mức 59,14%xuống 43,3% trong giai đoạn 2000-2007 nhưng vẫn chiếm phần lớn trongtổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Vốn kinh doanh và tài sản cốđịnh của DN Nhà nước cũng tăng nhanh và chiếm khoảng 50% trong tổng đầutư xã hội.
Tuy nhiên, doanh thu của khu vực này chỉ chiếm 31,5% trong tổng doanhthu của DN trong năm 2007. Năm 2008, đóng góp vào thu nhập quốc dân củaDN Nhà nước chỉ đạt 27%. Giá trị sản xuất công nghiệp cũng chỉ chiếm 20%trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các thành phần kinh tế.
![]() |
Công nhân ngành điện tại một công trình điện dân sinh ở huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên (Ảnh: Thế Dũng) |
TS Nguyễn Đình Cung, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tếTrung ương, cho rằng vốn đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước luôn chiếmtỉ lệ cao, khoảng 1/2 tổng đầu tư xã hội nhưng tỉ lệ đóng góp vào GDPchỉ ở mức 37%-39%; số việc làm được tạo ra bởi khu vực kinh tế này thậmchí chỉ chiếm 4,4% tổng số lao động.
Không hoàn thành nhiệm vụ
Như vậy, có thể nói các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước chưa thật sự đảmnhiệm được vai trò chủ đạo vì hoạt động kém hiệu quả hơn các khu vựckhác, vẫn còn dựa dẫm, ỷ lại vào các chính sách ưu đãi của Nhà nước dướinhiều hình thức. Bài học này rõ nhất từ hiện thực thiếu điện và dở dangcủa ngành công nghiệp đóng tàu.
Theo TS Vũ Đình Ánh, Học viện Tài chính (Bộ Tài chính), tiến trình côngnghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước yêu cầu ngành điện phải đi trước mộtbước để phục vụ nhưng trong thực tế, điện không những không đi trước mộtbước mà còn đi sau. VN đang đứng trước nguy cơ mất an ninh năng lượngđiện do cung không đủ cầu dẫn đến tình trạng thiếu điện, cắt điện ngàycàng phổ biến, tác động tiêu cực đến sản xuất kinh doanh cũng như đờisống nhân dân.
Các “ông lớn” như Tập đoàn Điện lực VN (EVN), Tập đoàn Dầu khí Quốc giaVN (PVN), Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản VN (TKV) được giaotrọng trách bảo đảm nguồn cung điện cho nền kinh tế song sản lượng điệnphát ra lại chỉ tăng 6%-10%/năm (thậm chí năm 2006 còn giảm gần 6% sovới năm trước) nên tỉ trọng của kinh tế Nhà nước trong tổng sản lượngđiện phát ra đã giảm từ gần 97% năm 2004 xuống còn gần 71% năm 2009.
Trong khi khu vực kinh tế ngoài Nhà nước chỉ bảo đảm một phần không đángkể nguồn điện với 13 triệu KWh năm 2009 (con số này năm 2000 là 11 triệuKWh), chủ yếu do đầu tư nguồn điện đòi hỏi vốn lớn và chậm thu hồi vốnđầu tư nên không hấp dẫn khu vực kinh tế ngoài Nhà nước thì khu vực cóvốn đầu tư nước ngoài (FDI) đã tích cực lấp vào khoảng trống này mặc dùcó nhận định là do giá điện thấp nên không hấp dẫn các nhà đầu tư nướcngoài.
Khu vực FDI có lợi thế về vốn và sẵn sàng chấp nhận thời gian thu hồivốn dài do họ là những nhà đầu tư chuyên nghiệp với cam kết đầu tư lâudài. Kết quả là sản lượng điện của khu vực FDI tăng tới 20%-30%/năm,thậm chí năm 2006 tăng gấp 4 lần so với năm 2005, năm 2009 gấp 8,4 lầnso với 2005 và gấp gần 14 lần so với năm 2000. Tỉ trọng của khu vực FDItrong tổng sản lượng điện phát ra đã tăng vọt từ 5,4% năm 2005 lên gần30% năm 2009.
|
Theo Phương Anh
Người lao động