Tây Nguyên đại ngàn chất chứa bao sử thi hùng tráng, bao thắng cảnh thiên nhiên kì vĩ và con người nhiệt thành, thân thiện.
Tây Nguyên đại ngàn chất chứa bao sử thi hùng tráng, bao thắng cảnh
thiên nhiên kì vĩ và con người nhiệt thành, thân thiện. Tới thăm mảnh
đất đỏ cao nguyên, đừng nên bỏ lỡ những món ăn đặc sản của núi rừng nơi
đây.
1. Thịt nai
Ai
tới miền đất đỏ, khi về chẳng thể quên mua chút nai khô làm quà. Thịt
nai đã trở thành món đặc sản không thể thiếu của vùng rừng núi Tây
Nguyên. Miền Tây Bắc giờ đã rất khó kiếm nai, nên người dân miền Bắc
ngày nay chủ yếu chỉ còn có thể thưởng thức bò khô, trâu khô. Riêng mảnh
đất đại ngàn Tây Nguyên vẫn còn thứ thịt núi rừng ngọt lịm, đê mê.
Tại
các nhà hàng ở Đắk Lắk, món thịt nai tươi được đưa vào thực đơn với vô
số món ngon miệng như nai nướng, nai xào, nai nhúng giấm… Khách từ
phương xa có thể mua nai khô, tẩm ướp khá giống bò khô nhưng mềm ngọt
hơn nhiều để làm quà tặng người thân. 2. Gà nướng sa lửa
Đời
sống đồng bào Tây Nguyên gắn bó mật thiết với núi rừng nên văn hóa ẩm
thực vùng đất đỏ, đặc biệt là người Đắk Lắk cũng sẽ mang đậm sắc thái
đại ngàn. Vi đều dùng các nguyên liệu tươi ngon nhất nên đồng bào nơi
đây thường sử dụng phương thức chế biến hết sức đơn giản mà làm nổi bật
hương vị tuyệt hảo của món ăn, đó là nướng.
Trong các món nướng
của người Tây Nguyên, không thể không nhắc tới món gà sa lửa.Gà được
chọn là gà rừng, cho thịt dai ngon hoặc gà đàn dân bản cũng được nuôi
theo phương pháp tự nhiên.Sở dĩ món này có tên là gà sa lửa là bởi vì
cách chế biến rất độc đáo của nó. Gà nguyên con được kẹp vào giữa 2
thanh tre hoặc nứa rồi để cạnh bếp lửa cháy bùng trong khoảng 2 đến 3
giờ cho chín hẳn bằng hơi lửa chứ không nướng trực tiếp trên than hồng
như các món gà nướng khác. Gà nướng mang hương nồng đượm đặc trưng của
núi rừng Tây Nguyên.
3. Cơm lam Tây Nguyên
Cơm
lam thường được nhắc tới bên cạnh gà sa lửa như một cặp đôi thân thiết
không thể tách rời. Cơm lam của người Tây Nguyên cũng được nấu từ gạo
nếp nương nhưng không được nướng trực tiếp trên than hoặc lửa mà lùi
dưới tro trấu tới
khi ống lam chuyển màu cháy xém. Cơm lam dẻo ngậy, thơm thoang
thoảng,chấm cùng muối mè, ăn với gà sa lửa là bữa ăn núi rừng ấm áp và
đặc trưng, khiến bất kì ai dù thưởng thức một lần cũng không thể nào
quên.
4. Chuối hột rừng Ba na
Cây chuối hột sinh trưởng tự nhiên trong rừng Tây Nguyên, và ở Tây Nguyên không phải vùng đất nào cũng có thể sinh trưởng được.
Đặc
trưng mỗi cây chuối hột chỉ có một buồng chuối, cây được mọc từ hột
không mọc từ chồi. Quả nhỏ ngang ngón tay, cơm ít, hạt nhiều. Chuối sau
khi được thu hái chọn lọc tư những nơi sâu nhất của Ba Na đại ngàn được
mang về rửa sạch, lột vỏ, sấy rút nước, phơi 3 nắng rồi sao vàng cháy
xém, hạ thổ để nguội. Chuối hột Ba Na được cho là có công dụng thần kỳ
với những người bị sỏi thận, tiểu đường, thấp khớp... 5. Lẩu lá
Có khoảng hơn 10 loại lá được dùng để chế biến lẩu lá rừng, phần lớn chúng đều được người dân bản địa phát hiện ra khi đi rừng. Ban
đầu những lá này được sử dụng như một thứ rau rừng để phục vụ cho những
bữa ăn trên nương, trên rẫy. Sau này khi tập quán sản xuất thay đổi thì
nó được dùng như một đặc sản đó là lẩu lá rừng. Cùng với những loại lá
này còn có mắm thịt, tôm nõn và thịt luộc.Lẩu lá rừng chính là kinh
nghiệm từ ngàn đời của đồng bào dân tộc bản địa được đúc kết. Mỗi loại
lá đều chứa đựng trong mình những chất dinh dưỡng đặc biệt, có tác dụng
tốt đối với sức khoẻ.
6. Phở khô Gia Lai
Người
Gia Lai xem món phở khô như một món ăn không thể thiếu trong thực đơn
các món ăn của mình.Phở khô có sợi nhỏ như sợi hủ tiếu gõ nhưng săn và
hơi dai.Tô bánh phở bao gồm phở chần chín, giá chần, hành phi và thịt
băm.
Hương
vị của phở khô Gia Lai khác hẳn với các loại phở khác, nước dùng của
món ăn này cũng rất khác với món phở bắc truyền thống.Khi thưởng thức
món ăn này, thực khách sẽ được phục vụ hai tô, một tô bánh phở và một tô
nước súp. Người ăn sẽ cảm nhận được vị ngọt của thịt bò mềm, thịt heo,
vị đậm đà của nước dùng hòa quyện cùng hương thơm của các loại rau sống
vô cùng hấp dẫn.
7. Rượu cần
Rượu cần là
đồ uống thường xuyên, phổ biến và bất biến của các cư dân bản địa Tây
Nguyên. Uống rượu cần trở thành phong tục, có nguồn gốc khá lâu đời,
thành nét văn hóa đặc trưng trong đời sống. Rượu cần là thứ đồ uống quý
thường chỉ dùng trong các dịp lễ tế thần linh, những ngày hội làng và
dành đãi khách.
Ở
Tây Nguyên đâu đâu cũng uống rượu cần. Rượu cần thơm, ngon, mát, bổ,
kích thích tiêu hoá, lợi tiểu. Chum nhỏ là một chum một cần, chồng rót
vợ uống và ngược lại. Chum nhỡ là đôi bạn, đôi cần, theo số chẵn là bốn,
sáu, tám. Chum to sẽ là mười, mười hai,mười bốn bạn bè anh em đến là
“lảu khay cáy khả” (rượu mở, thịt gà).
Trong hàng chục, hàng trăm
loại rượu, có lẽ đây là loại duy nhất không uống bằng ly, bằng chén mà
uống bằng một dụng cụ đặc biệt được gọi là cần. Bởi thế, việc sử dụng
thứ đặc sản này có thêm “công đoạn” hút, trước khi uống chúng vào người.
Hơn nữa, đối với rượu cần, người ta không uống một mình với mục đích
giải sầu mà chỉ uống tập thể vào những dịp lễ Tết, hội hè… khi tiếp đãi
bạn bè, khách quý phương xa.
8. Cà phê Buôn Ma Thuột
Thành
phố Buôn Ma Thuột từ lâu đã được coi là thủ phủ cà phê Tây Nguyên.
Vùng đất đỏ cao nguyên đã cho ra đời thứ cà phê cao năng suất và chất
lượng. Ở Đắk Lắk gần như huyện nào cũng có trồng cà phê, nhưng cà phê
Buôn Ma Thuột vẫn luôn được đánh giá là có chất lượng cao nhất và có
hương vị đặc trưng nhất, chính vì vậy thương hiệu Cà phê Buôn Ma Thuột
được thế giới biết đến và địa danh Buôn Ma Thuột được nhiều người ví như
"thủ phủ cà phê".
Ở Đắk Lắk hiện tại, một số vấn đề liên quan
đến cà phê đã trở bản sắc văn hóa như việc mời đi uống cà phê đã là một
nét văn hóa đặc trưng của vùng này. Mời đi uống cà phê là một nét văn
hóa rất đặc trưng của thành phố Buôn Ma Thuột.