Bệnh nhân đếngặp thầy thuốc, thường bắt đầu khai bệnh bằng thuật ngữ “đau thần kinh toạ”.

Khi đã có trong tay phim cộng hưởng từ (MRI),lại đọc qua lời giải chuyên môn với nhiều từ khủng hoảng, bệnh nhân càng dễhoang mang chấp nhận lời chẩn đoán đau thần kinh toạ. Thật ra, nhiều bệnhnhân chỉ đau thắt lưng do bệnh lý khác!

“Toạ” là từ Hán Việt chỉchỗ ngồi, trên cơ thể là vùng mông tiếp xúc nơi ngồi. Gọi thần kinh toạđể chỉ năm rễ thần kinh chi phối cảm giác, vận động của chân gồm thắtlưng 4, thắt lưng 5, thiêng 1, thiêng 2, thiêng 3.

Thật ra, chỉ có một rễchi phối cảm giác đúng vùng toạ hay ụ ngồi, xuống sau đùi, sau bắpchuối, tới gót chân và mặt lòng bàn chân là rễ thiêng 1.

Một rễ thần kinh toạ kháchay gặp là rễ thắt lưng 5 lại đau ra mé ngoài ụ ngồi, mé ngoài đùi, mặtngoài cẳng chân, lan xuống tới mắt cá ngoài và mu bàn chân. Như thế, nếuchỉ đau thắt lưng, không lan xuống chân thì không phải đau thần kinhtoạ.

Đau thần kinh tọa, cơn đau dễ nhầm

Thủ phạm thường gặp: thoát vị đĩa đệm thắtlưng

Đau thần kinh toạ có rấtnhiều nguyên nhân: thoát vị đĩa đệm thắt lưng, hẹp ống sống thắt lưng,bệnh lý rễ thần kinh do tiểu đường, viêm rễ thần kinh toạ do ngộ độc,bướu gây chèn ép đường đi rễ thần kinh toạ, lao cột sống thắt lưng gâychèn ép rễ thần kinh toạ… Nguyên nhân thường thấy nhất là thoát vị đĩađệm thắt lưng.

Đĩa đệm là phần mềm nằmgiữa các đốt sống, gồm có nhân nhầy và vành thớ. Khi khiêng vác quá sức,lực tác động vượt quá mức chịu đựng của đĩa đệm, có thể gây rách vànhthớ: nhân nhầy chui theo khe rách ra phía sau, chèn ép lên rễ thần kinhgây đau.

Một nguyên nhân khác làtác động thường xuyên của một lực lặp đi lặp lại, theo thời gian khảnăng chịu lực của đĩa sống yếu đi, vành thớ rách dần gây thoát vị đĩađệm chèn ép lên rễ thần kinh, gây đau thần kinh toạ.

Một số trường hợp chịulực quá nặng, đĩa đệm bể tức thì, gây đau cấp tính. Có hơn 50% bệnh nhânbị tái đi tái lại, lâu ngày dẫn đến đau thắt lưng cấp tính tái phát hayđau thần kinh toạ.

Khi nào nên phẫu thuật?

Không phải trường hợpthoát vị đĩa đệm nào cũng phải phẫu thuật, đa số trường hợp nên đượcđiều trị bảo tồn. Thời gian vàng điều trị bảo tồn là bốn tuần đầu saukhi khởi bệnh.

Việc điều trị bảo tồn baogồm: nằm nghỉ trên giường nệm dày, không trũng (là một trong những biệnpháp điều trị chính, bởi khi nằm đĩa đệm giãn ra, nhân nhầy bớt chèn éprễ thần kinh); dùng thuốc giảm đau thông thường như acetaminophen; dùngthuốc kháng viêm (không dùng corticosteroids); tập các động tác cơ bụng,thắt lưng, cơ cẳng chân một cách nhẹ nhàng, không gây sức căng lên đĩasống…

Nếu được chỉ định chínhxác, điều trị bảo tồn đúng mức thì hầu hết có thể khỏi bệnh. Riêng mộtsố bệnh nhân có các triệu chứng nặng như đau quá mức, bàn chân rớt, liệtvận động, liệt bọng đái… thì phải phẫu thuật sớm.

Cần lưu ý ngay khi hìnhảnh MRI cho thấy rõ có khối thoát vị lớn, bệnh nhân vẫn có thể có rất íttriệu chứng đau, tê trên lâm sàng và hoàn toàn có thể được điều trị bảotồn hữu hiệu trong tay thầy thuốc tốt.

Không phải trường hợp nàođược đọc là “khối thoát vị to, gây chèn ép rễ thần kinh...” đều bị mổđâu! Chỉ định phẫu thuật cần phải xem xét thận trọng, kết hợp với phươngpháp phẫu thuật tốt và kỹ thuật mổ tốt mới đem lại kết quả thoả đáng.

Phương pháp mổ được ưachuộng hiện nay là phẫu thuật ít xâm nhập với đường mổ nhỏ (mini-open)khoảng 30mm, mở phía bên thoát vị lấy bỏ nhân nhầy gây chèn ép rễ thầnkinh. Phương pháp này dễ thực hiện, an toàn.

Những biện pháp thườngđược quảng cáo “nội soi thoát vị đĩa đệm” có vẻ hấp dẫn thật ra vẫn làmột cuộc mổ với những rủi ro tương tự phẫu thuật. Sóng lade, sóng caotần thường cho kết quả hạn chế, nhất là khi chỉ định sai.

Các phương pháp được gọilà nội soi thoát vị đĩa đệm rất nguy hiểm nếu phẫu thuật viên chưa lànhnghề, thiếu những phương tiện dụng cụ vốn khó đáp ứng đầy đủ ở nước tahiện nay.

Nhất là bệnh nhân phảihứng nhiều tia X trong thao tác là một cái giá khác phải trả, ngoài chiphí điều trị cao quá mức. Biết quý cột sống thì phải tránh chấp nhận dễdãi chỉ định can thiệp vào đĩa đệm.

Đề phòng bệnh tái phát

Phục hồi chức năng làgiai đoạn điều trị quan trọng, hỗ trợ cho sự thành công dù bảo tồn hayphẫu thuật. Tập luyện chủ động cơ bắp, làm mạnh cơ thành bụng và thắtlưng rất quan trọng, hơn là các biện pháp vật lý như kéo giãn, sức nónghồng ngoại, tử ngoại, xoa bóp, day bấm huyệt, châm cứu… Sự nắn bẻ xươngsống nhiều khi làm bệnh nặng thêm.

Cần lưu ý sau khi mổ lấynhân nhầy ra, đĩa đệm không còn chịu lực như trước. Bệnh nhân cần đượchướng dẫn phòng tránh và theo dõi tốt để phát hiện sớm các triệu chứngthoái hoá đĩa đệm (mọc gai quanh thân đốt, hẹp đĩa đệm, khí trong đĩađệm…), mất vững cột sống, trượt đốt sống do thoái hoá…

Sau khi khỏi đau, bệnhnhân nên chơi các môn thể thao đối xứng nhẹ nhàng như bơi lội, đi bộ.Tập luyện nhẹ nhàng, tăng cường sức mạnh cơ thành bụng và c ơ thắt lưngsẽ giúp phòng ngừa tái phát bệnh lý thoát vị đĩa đệm.

 

Các triệu chứng thoát vị đĩa đệm

Đau thắt lưng. Đau xuống mông ngoài hay xuống u toạ. Đau lan xuống chân, đa số bệnh nhân đau một chân, một số ít đau hai chân. Đau kèm theo cảm giác tê. Đau nhiều khiến bệnh nhân đứng vẹo người sang bên và đi đứng lom khom, không nằm ngửa được. Đau khiến bệnh nhân không khom hay cúi thắt lưng được. Khi ráng cúi, chân đau thường tự động gập gối, co chân lại. Đau khi đi trên đầu ngón hay đi trên gót chân.
 
Ho, nhảy mũi, rặn đi cầu, la lớn tiếng có thể gây đau theo rễ bị chèn ép. Nằm ngửa, giở chân cao với gối duỗi thẳng thì đau nhiều theo rễ thần kinh bị chèn ép. Ấn vào thắt lưng có thể gây đau dài xuống chân theo rễ bị chèn ép. Chân bị teo cơ khi đau lâu và rễ thần kinh bị chèn ép lâu. Thường thấy teo bắp chuối hay teo mặt trước ngoài cẳng chân. Không thể mang dép hay dễ bị rớt dép, cổ bàn chân rủ xuống (còn gọi là bàn chân rớt). Một số ít trường hợp bị liệt một phần hai chân kèm bí tiểu.
Theo PGS.TS.BS Võ Văn Thành
 Sài Gòn Tiếp Thị