Đúng lúc “năm cùng tháng tận”,thị trường ngoại tệ  đón nhận một quyết định bất đắc dĩ của Chính phủ, yêu cầu 7doanh nghiệp lớn của Nhà nước bán lại một phần ngoại tệ cho ngân hàng. Có thểnhờ đó, căng thẳng tỷ giá tạm khép lại nhưng có ý kiến cho rằng, nếu biết triệttiêu kỳ vọng của thị trường nhằm hướng nguồn lực đó vào sản xuất mới là giảipháp có căn cơ.  

Cùng với chính sách lãi suất và gói hỗ trợ lãi suất ngắn hạn thì tỷ giá là vấnđề nóng hổi của thị trường tiền tệ năm 2009. Để thấy rõ sự biến động của chúng,nếu so sánh ở ba góc độ của thị trường là thị trường liên ngân hàng, thị trườngtự do, tỷ giá bình quân liên ngân hàng trong 4 giai đoạn (tháng 1 - tháng 3;tháng 4 - tháng 9; tháng 10 - ngày 24/11 và từ 25/11 đến hết năm 2009), thật khóhình dung sự biến động của chúng lớn đến mức nào.

Và có vẻ như giữa hoạt động điều hành và thị trường, rất khó tìm thấy tiếng nóichung.   

Khổ sở vì tỷ giá

Đầu tiên, xét trên thị trường liên ngân hàng. Ở giai đoạn 1, tỷ giá dao độngtrong khoảng 17.450 đồng - 17.700 đồng, cách giá trần khoảng từ 0 - 200 điểm (mộtđiểm tương đương một đồng), lúc đó tính thanh khoản thị trường kém, nguồn cungkhan hiếm, ngoại trừ thời điểm thị trường được bổ sung từ doanh thu xuất khẩuvàng.

Giai đoạn 2, tỷ giá liên ngân hàng sát giá trần của Ngân hàng nhà nước (Ngânhàng Nhà nước) trong khoảng 10 ngày sau khi Ngân hàng Nhà nước tăng biên độ tỷgiá (từ +/- 3% lên +/- 5% vào ngày 23/3/2009). Tuy nhiên đến 9/4, tỷ giá liênngân hàng tăng mạnh và duy trì biên độ 200 - 600 điểm so với giá trần.

Giai đoạn 3, từ cuối tháng 10/2009, tỷ giá tăng mạnh và đến ngày 10/11, cao hơngiá trần 1.000 điểm. Biến động tỷ giá rất dữ dội, có ngày tăng 200 - 300 điểm vàđạt đỉnh ở mức 19.750 vào 24/11. Chỉ đến khi Ngân hàng Nhà nước cho phép nhậpvàng trở lại, tỷ giá ở thị trường này giảm trong 2 ngày nhưng vẫn cao hơn 1.200- 1.500 điểm so với giá trần.

Giai đoạn 4, tỷ giá giao dịch liên ngân hàng giảm từ mức cao 19.800 đồng xuống18.500 đồng, sát với giá trần.

Ở thị trường tự do, tỷ giá biến động dữ dội hơn rất nhiều. Giai đoạn 1, chúngdao động trong khoảng 17.450 đồng - 17.800 đồng, cao hơn tỷ giá trên liên ngânhàng trên 100 điểm. Giai đoạn 2, từ 18.180 đồng - 18.250 đồng nhưng từ nửa cuốitháng 6/2009, tăng lên mức 18.450 đồng - 18.500 đồng.

Đi tìm nguyên nhân thực của căng thẳng tỷ giá

Thông thường, cứ mỗi đợt tỷ giá căng thẳng, lời giải thích của cơ quan quản lý bao giờ cũng là “cân đối cung cầu ngoại tệ vẫn ổn định”, “thâm hụt cán cân thanh toán tổng thể không đến mức lo ngại”, “lãi suất USD trên thị trường ở mức bình thường” và vì thế, “tỷ giá vẫn trong vòng kiểm soát”… - (Ảnh: Việt Tuấn)

Sang giai đoạn 2, tỷ giá thịtrường tự do tăng rất nhanh, đạt đỉnh 20.000 đồng rồi giảm nhanh về 18.700đồng trước khi tăng trở lại và duy trì ở mức 19.000 đồng - 19.300 đồng. Đếngiai đoạn 4, tỷ giá thị trường này giảm mạnh.

Nếu  như tỷ giá hai thị trường trên biến động mạnh thì biến động của tỷ giábình quân liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho tỷ giáthị trường biến động rất ít. Ở giai đoạn 1, chúng biến động nhỏ và xoayquanh mức 16.980 đồng. Giai đoạn 2, sau khi nới biên độ, tỷ giá giảm từ16.980 đồng xuống 16.935 đồng (- 0,26%) và duy trì đến hết tháng 5/2009. Từtháng 6/2009, mặc dù Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng dần nhưng mức tăngthấp.

Giai đoạn 3, nhịp độ tăng của tỷ giá bình quân liên ngân hàng vẫn khôngnhiều và tính đến 19/11/2009, mức tăng của chúng so với cuối 2008 chỉ 0,3%.Ở giai đoạn 4, kể từ 26/11, Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tỷ giá bình quânliên ngân hàng tăng 5,44% và so với cuối năm 2008, mức tăng của chúng chỉ5,81%.

Cùng với USD, những ngoại tệ khác cũng tăng giá mạnh mẽ mà tỷ giá tính chéogiữa VND với một số ngoại tệ khác được áp dụng để tính thuế xuất nhập khẩulà một ví dụ. Và những nhà đầu cơ ngoại tệ khác ngoài USD đã vớ bẫm, mặc dùđó mới chỉ là số lời lãi tính trên tỷ giá tính chéo của Ngân hàng Nhà nước,còn thực tế thì còn lớn hơn nhiều.  

Giải mã ẩn số “bình ngưng”!

Thông thường, cứ mỗi đợt tỷ giá căng thẳng, lời giải thích của cơ quan quảnlý bao giờ cũng là “cân đối cung cầu ngoại tệ vẫn ổn định”, “thâm hụt cáncân thanh toán tổng thể không đến mức lo ngại”, “lãi suất USD trên thịtrường ở mức bình thường” và vì thế, “tỷ giá vẫn trong vòng kiểm soát”…

Thế nhưng, những gì đang diễn ra trên thị trường lại không tuân theo nhữngtrấn an kia, bởi sự căng thẳng tỷ giá trong thời gian qua có phải do nhữngnguyên nhân dài hạn như trên?


Trở  lại với thực tế trong năm 2009, mặc dù ngân hàng quá dồi dào nguồnngoại tệ cho vay tới hàng tỷ  USD, khiến lãi suất giảm thấp (dĩ nhiên, lãisuất USD giảm ở Việt Nam còn có một nguyên nhân khác là đồng USD xuống giáso với nhiều đồng tiền chủ chốt khác) nhưng nguồn để kinh doanh (bán ra) thìthiếu.

Khi thiếu, một mặt ngân hàng không có nguồn bán cho doanh nghiệp, khiếndoanh nghiệp tăng cường “vét” trên thị trường tự do, đẩy tỷ giá ở thị trườngnày tăng chóng mặt; mặt khác, họ hối thúc Ngân hàng Nhà nước phải bán ra.

Hiển nhiên như vậy nhưng ít ai tìm thấy mối liên hệ giữa câu chuyện nguồnhuy động ngoại tệ thì thừa nhưng nguồn ngoại tệ kinh doanh lại thiếu. Cũngvì thế, hành động ra sao để tạo ra bình thông nhau giữa hai nguồn ngoại tệnày trong hệ thống ngân hàng không được quan tâm, mà thay vào đó là Ngânhàng Nhà nước phải bán ngoại tệ cho ngân hàng thương mại.

Thực tế, Ngân hàng Nhà nước đã hành động theo hướng này và mỗi lần thực hiện“bơm” ra, thị trường bình ổn trở lại nhưng khi hết đợt, tỷ giá lại tăng. Cónhững thời điểm, Ngân hàng Nhà nước bán ra bao nhiêu, hết bấy nhiêu, hệt nhưđổ vào “hố đen” không đáy.

Để rõ hơn vấn đề này, ông Lê Xuân Nghĩa, Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tàichính Quốc gia phân tích: “Nhiều người nghĩ tỷ giá là do tác động của thâmhụt thương mại, thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế nhưng đó chỉ là nhữngtác động mang tính dài hạn. Còn trong ngắn hạn đối với Việt Nam hiện nay,câu chuyện tỷ giá liên quan nhiều đến lãi suất”.

Theo ông, ở một quốc gia bị “Đô la hóa” từ lâu như Việt Nam, khi Chính phủcó chủ trương hỗ trợ lãi suất đã làm cho lãi suất cho vay của đồng Việt Namgiảm xuống. Tuy nhiên, vì Chính phủ không song song hỗ trợ lãi suất đồng USDnên đã làm cho khoảng cách của chênh lệch lãi suất giữa đồng USD và VND bịthu hẹp lại. Khi khoảng cách này càng gần thì nghiễm nhiên, VND trở nên mấtgiá và đồng USD bị tăng giá cục bộ ở Việt Nam một cách giả tạo.

Từ đó, một lượng lớn ngoại tệ bị rút khỏi lưu thông, nằm dưới dạng “tài sảnđể dành”, “găm giữ” của doanh nghiệp và dân chúng trên tài khoản hoặc ở kétsắt, chờ tỷ giá tăng để săn tìm lợi nhuận. Và đó cũng chính là tình trạnggóp phần tạo nên “bình ngưng” ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng mà Ngân hàngĐầu tư và Phát triển Việt Nam trong một văn bản kiến nghị Ngân hàng Nhà nướctháo gỡ một số vướng mắc trong hoạt động kinh doanh ngân hàng đã đề cập.

Dĩ  nhiên, tác động phụ này sẽ không xảy ra nếu Chính phủ đồng thời làm haiviệc vừa tài trợ lãi suất cho tín dụng nội tệ, vừa tài trợ lãi suất cho tíndụng ngoại tệ, nhằm phản ánh đúng tỷ lệ lạm phát của Việt Nam so với tỷ lệlạm phát của Mỹ cũng như uy tín của VND so với USD.

Nhìn ở góc độ khác, tình trạng trên cũng lý giải một phần câu chuyện khi cânđối cán cân thanh toán tổng thể, cơ quan chuyên môn đưa ra con số thâm hụt 3tỷ USD nhưng số “sai sót” lên tới 5,6 tỷ USD.

Số “sai sót” trên có nghĩa như thế nào? Ông Nghĩa phân tích: ở các nước xuấtkhẩu tư  bản thì đó là đầu tư tư bản ngầm ra nước ngoài. Còn ở Việt Nam, vốnlà quốc gia “Đô la hóa” nên lượng USD nói trên không ra khỏi biên giới màchỉ ra khỏi lưu thông và nằm lại dưới dạng “của để dành”, không có tínhthanh khoản như mong đợi của thị trường và cũng không thể hiện ở đâu cả.

“Không thể hiện ở đâu cả” thì làm sao biết được “sai sót” những 5,6 tỷ USD?Ông Nghĩa giải thích: “Người ta biết được từ ước lượng kết quả thâm hụtngoại tệ giảm đi ngần này, thu ngoại tệ ngần này, chứng tỏ có một khối lượngđang nằm đâu đó. Phương pháp này được xác định bằng cách lần mò từ con sốcuối cùng đi lên”.

Điều này đồng nghĩa, số “sai sót” trên cũng không phải xuất phát từ nguyênnhân “nhập lậu” vì thực tế, nhập lậu xuất hiện đã hàng chục năm nay nhưngchưa bao giờ có con số thông kê, vậy thì khi xuất hiện con số “sai sót” nóitrên, không thể đổ lỗi cho nhập lậu.

Có nên trách cứ kỳ vọng thị trường?

Như vậy, đến bao giờ thì triệt tiêu được kỳ vọng của thị trường? Có lẽ,trước khi trả lời câu hỏi này thì phải hiểu rằng, kỳ vọng thị trường làchuyện đương nhiên, và không nên/không thể trách cứ kẻ có tiền kỳ vọng.

Một chuyên gia cho rằng, chừng nào kỳ vọng còn tăng thì còn găm giữ và ngượclại, họ sẽ bán tống, bán tháo. Vấn đề quan trọng nhất của nhà hoạch địnhchính sách là đừng tạo ra kỳ vọng đó; hoặc nếu tạo ra thì phải hai chiều:ngày hôm nay bán tốt nhưng ngày mai có thể mua tốt, khiến cho không ai dámđể dành bởi sự khó lường của giá cả.

Và đó là nghệ thuật của bàn tay điều hành chính sách.

Bởi vậy, bà Dương Thu Hương, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam chorằng, muốn đồng USD quay trở lại thị trường một cách bình thường thì đầutiên, tỷ giá hối đoái phải hợp lý, khiến cho người sở hữu ngoại tệ thấy rằng,với giá này, mình có thể bán.

Mặt khác, khi lãi suất VND tăng lên, người sở hữu USD sẽ bán USD để lấy VND.Hai yếu tố này sẽ làm cho kỳ vọng thị trường giảm xuống, nhu cầu tích trữUSD như một thứ “của để dành” như vàng hay kim cương sẽ được triệt tiêu dần.

Thứ  ba, còn một yếu tố nữa, khi các cơ hội đầu tư, sản xuất, tiêu dùng phụchồi thì người sở  hữu đồng USD sẽ mang chúng để đầu tư  với kỳ vọng lợinhuận cao hơn tích trữ.

Một câu hỏi khác được đặt ra là cơ hội sinh lời từ đầu cơ ngoại tệ trongnăm nay sẽ như thế nào?

Ông Nghĩa cho rằng, những khoản sinh lời từ đầu tư ngoại tệ có được trước đóchẳng qua là do may mắn. Bởi vì khi Chính phủ kích cầu, Ngân hàng Nhà nướckhông thể sử dụng các công cụ thị trường nên phải thay vào đó là các công cụhành chính như khống chế tăng trưởng tín dụng, lãi suất cho vay.

Tuy nhiên, khi nền kinh tế phục hồi, nhu cầu đầu tư sản xuất thực sự trở lại,Ngân hàng Nhà nước sẽ  quay về với các công cụ thị trường, chính sách lãisuất, tỷ giá thực hiện theo đúng cung - cầu thị trường. Từ đó, yếu tố kỳvọng của thị trường sẽ bị triệt tiêu dần và hành vi đầu cơ sẽ khó có cơ hội.

Đến đây, sẽ có người hỏi rằng: nếu “kỳ vọng thị trường” là “tội đồ” gâynên căng thẳng tỷ giá thì liệu có cần thiết buộc các doanh nghiệp Nhà nướcbán lại một phần ngoại tệ cho ngân hàng một cách “oan uổng” như vừa qua?

Liên quan đến vấn đề này, ông Nguyễn Ngọc Bảo, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiềntệ (Ngân hàng Nhà nước) nêu quan điểm: “Nguồn ngoại tệ mà các doanh nghiệpđang sở hữu được tạo nên từ những tài nguyên của đất nước. Trong khi thịtrường bất ổn, hành động chia sẻ khó khăn với Chính phủ là việc nên làm vàphải làm”. Và như vậy, giá như sự chung tay của họ xuất phát từ sự tự nguyệnsẽ tốt và đáng trân trọng hơn nhiều lần từ một quyết định “cực chẳng đã”.

Mặt khác, từ việc phân tích biến động tỷ giá qua 4 giai đoạn trong năm 2009,cho thấy, mức tăng tỷ giá hai thị trường liên ngân hàng và thị trường tự dođã không bám sát với mức tăng của tỷ giá bình quân do Ngân hàng Nhà nướccông bố.

Liệu, đó có phải là bàn tay quản lý đang dần thoát ly khỏi thị trường?

Theo Nguyễn Hoài
Đi tìm nguyên nhân thực của căng thẳng tỷ giá