Phải mất nhiều ngày sắp xếp lịch trình, chuẩn bị đồ đạc và luyện tập thể lực cho một hành trình đi bộ xuyên rừng rậm, núi đồi với khoảng 300km để đến một nơi sinh sống của những bộ tộc Dani, Lani , Yali ở sâu trong thung lũng Baliem của dãy núi Jayawijaya. Đây là những bộ tộc có đời sống hoang dã nhất hành tinh, và hầu như chưa bị ảnh hưởng bởi lối sống của người hiện đại. Trước lúc lên đường, dù đã dò tìm khắp trên Internet và các phương tiện thông tin khác, nhưng những gì tìm được về miền đất Irian Jaya rất hạn chế. Nhìn trên bản đồ Indonesia, đảo Irian Jaya chỉ là một vệt xanh của rừng núi, và vài chấm định danh thị trần lớn như Jayapura, Wamena, Timika, còn lại không một thông tin chi tiết gì hơn.
Chuyến đi rừng kinh hoàng
Sau 6 chặng bay tính từ TP. HCM, chúng tôi đến được sân bay Wamena, nơi bắt đầu hành trình đi bộ vào những cánh rừng sâu của dãy núi Jayawijaya có đỉnh Trikora cao 4730m, là ngọn núi cao thứ II ở Indonesia, để diện kiến ba tộc người Dani, Yali và Lani.
Đoàn chỉ có 3 người, nhưng phải cần đến 15 người dẫn đường kiêm luôn nhiệm vụ mang vác hành lý, dẫn đường và phiên dịch cho hành trình suốt 10 ngày trong rừng sâu. Người dẫn đường chính của chúng tôi - Rufus - đưa ra một bản đồ hành trình dài được vẽ tay. Ở chốn rừng sâu, các máy móc và phương tiện hiện đại đều vô hiệu vì không có nguồn điện để sạc pin. Máy định vị GPS pin chỉ đủ cho một ngày xài liên tục, la bàn cũng chẳng có tác dụng nếu không có bản đồ chi tiết. Vì vậy, chiếc bản đồ vẽ tay là vật quý giá nhất với chúng tôi.
Mỗi ngày 8-10 giờ đi rừng, hết ngọn núi này lại đến ngọn núi khác, đi qua những vách núi lở đất mà không dám ngoái nhìn lại, băng mình trong mưa rừng lạnh buốt đến tê cóng hai bàn chân, suốt 3 ngày liền cứ đi hết làng nọ đến làng kia, từ Wamena đến Wuserem, rồi Pukam, Wesalep, Wamerek, ở độ cao từ 2500m trở lên, nhưng tăm hơi của các bộ tộc hoang dã vẫn chưa xuất hiện. Trên đường đi, người dẫn đường kể về câu chuyện rùng rợn của những bộ tộc trong rừng sâu, mà nơi đó chỉ toàn là phụ nữ, khi họ muốn có con, họ sẽ bí mật kéo đến các làng kế cận để bắt người đàn ông về làng mình, sau khi làm nhiệm vụ gieo giống xong, người đàn ông bị giết cho cả làng ăn thịt.
Chúng tôi biết các bộ tộc ở vùng núi này đều có tục săn đầu người, mỗi khi có cuộc chiến, kẻ thua cuộc sẽ bị làm thịt chia cho cả làng, và vụ ăn thịt người được phát hiện gần đây nhất vào những năm 70. Tuy vậy, vẫn còn nhiều những bộ lạc trong rừng sâu chưa từng được khám phá. Những câu chuyện nửa hư nửa thực cộng với đường đi vẫn mờ mịt phía trước, khiến chúng tôi không khỏi khiếp sợ và nản lòng.
Vũ điệu chiến binh
Cơn mệt mỏi chưa kịp dứt, trong đầu lởn vởn bao suy nghĩ sởn gai ốc về những trận chiến, những cuộc săn đầu người để ăn thịt của bộ tộc Dani, Yali và Lani, ngày thứ 4 của hành trình, chúng tôi mới đến ngôi làng Iboroma - nơi bộ tộc Dani đang sinh sống. Sau khi vượt qua con dốc đứng đến một bãi cỏ trải dài, chúng tôi giật mình khi những bóng người mang giáo dài, trang bị cung tên rầm rập xông thẳng đến bao vây lấy chúng tôi, hét lên những tiếng kêu hoang dại.
Trước mắt chúng tôi bây giờ là hơn 20 người đàn ông lực lưỡng, gần như trần truồng, mặt bôi đen, đầu đội lông chim, mũi đính cặp nanh heo cong ngoắt trông thật dữ tợn, giương cao cây cung chỉa mũi tên vào từng người chúng tôi, phẩy tay ra lệnh theo họ đi sâu vào trong làng. Miệng không ngớt hú lên những âm thanh lạ lùng, kỳ quái.
Sau khi bước qua những tường rào, chúng tôi bị dồn vào một khoảng sân rộng. Tiếng hú của những người đàn ông đã đánh thức dân làng từ khắp nơi túa đến ngày một đông, mặt đầy ngơ ngác nhìn chúng tôi đang trong trang phục khác biệt quá xa với họ. Định thần lại, người dẫn đường khi ấy mới cho chúng tôi biết đó là màn chào hỏi của những chiến binh Dani với khách lạ được họ trích từ trong vũ điệu mỗi khi giành chiến thắng với các bộ tộc khác trở về. Và những ngày ở cùng người Dani, chúng tôi có cơ hội tìm hiểu về đời sống của họ.
Quyền lực xác ướp
Một ngày đẹp trời, vị tù trưởng của bộ tộc Dani nói lên nguyện vọng của mình trước toàn thể dân làng: "Khi chết đi, tôi muốn thân xác được giữ lại mãi", và tục ướp xác của người Dani ra đời. Phải khó khăn lắm, chúng tôi mới tiếp cận được một trong bốn xác ướp hiếm hoi ấy và được nghe câu chuyện kỳ bí về tục xác ướp của người Dani ở thung lũng Baliem.
Ngay sau khi chết, xác của vị tù trưởng sẽ được người kế vị tắm rửa, và khoét một lỗ ngay phần hông lưng để lấy đi nội tạng, sau đó xác được xếp trong tư thế ngồi bó gối, tay cầm chiếc rìu đá, cổ và đầu mang những vòng trang sức được đan từ dây rừng, đặt trang trọng ngay trên bếp lửa trong ngôi nhà vị tù trưởng kế vị. Và ngày qua ngày, khói bếp luôn nghi ngút không bao giờ tắt trong ngôi nhà để hong khô thân xác vị tù trưởng đáng kính. Và việc bảo quản xác ướp chỉ bằng khói bếp được lưu truyền từ vị tù trưởng kế vị cho đến các vị tù trưởng khác hết đời nọ đến đời kia.
Cộng đồng người Dani nào có được xác ướp, đó là sự tự hào của làng của những người có quan hệ huyết thống với xác ướp. Và những ai được gìn giữ, bảo quản và ngủ chung với xác ướp, đó là những người được cộng đồng nể trọng, là người cao quý nhất trong cộng đồng của làng, thường cũng là tù trưởng. Ngôi nhà nơi cất giữ xác ướp chỉ duy nhất người bảo quản xác ướp được phép ra vào, là nơi bất khả xâm phạm với tất cả phụ nữ và người lạ.
Sau một thời gian thuyết phục vị tù trưởng cùng những người làng nơi đang lưu giữ một xác ướp hơn 250 năm tuổi, người dẫn đường cho chúng tôi mới thở phào nhẹ nhõm khi được vị tù trưởng của làng đồng ý cho chúng tôi tận mắt nhìn thấy xác ướp. Từ trong căn nhà Honai, vị tù trưởng nhẹ nhàng, chậm rãi, trân trọng đưa ra cho chúng tôi một xác ướp trong tư thế ngồi, da khô đét bọc lấy xương và toàn thân nhuốm một màu đen bóng từ khói bếp.
Cánh tay xác ướp vẫn ôm chặt cây rìu bằng đá - dụng cụ quan trọng nhất trong đời sống của người Dani từ ngàn đời nay, miệng hơi ngước lên há rộng như muốn kể về những chiến công oanh liệt từ ngàn xưa cùng hậu thế. Và người Dani quan niệm rằng xác ướp vẫn đang sống đó giữa cộng đồng của họ - những người chủ của rừng già trong thung lũng Baliem ở dãy núi Jayawijaya.
Những con người dũng cảm
Người Dani có tục cắt đi một đốt ngón tay của mình khi gia đình có người thân mất đi, nếu cả hai bàn tay đã cắt hết, phần thân thể tiếp theo sẽ là vành tai, mũi. Người Dani tin rằng, khi cắt lìa phần thân thể người sống, người chết sẽ đồng cảm và phù hộ cho cuộc sống của họ giữa rừng xanh bao la.
Trong hành trình đi rừng, chúng tôi gặp bà Mereka đã cắt hết 6 ngón tay, bà kể chuyện: "Khi trong nhà có tang, phụ nữ chúng tôi phải bôi bùn lên người, và sau đó vài ngày sẽ đi vào rừng sâu, đến nơi thanh vắng không để ai nhìn thấy và dùng chiếc rìu đá chặt dập các đốt xương ngón tay. Khi về lại làng, người làng thấy ngón tay dập sẽ kéo đến, dùng xương ống của loài chim Caswari (tương tự như đà điểu) đã được mài bén như dao để cắt lìa đốt ngón tay. Chúng tôi làm như vậy để chia sẻ nỗi đau đớn và mất mát với người đã khuất". Không một phương thuốc giảm đau để cắt đi các đốt ngón tay, chúng tôi hiểu chỉ có niềm tin mới giúp những phụ nữ Dani vượt qua đau đớn về thể xác để thực hiện một công việc kinh hoàng đến thế. Họ thực sự là những phụ nữ dũng cảm nhất ở vùng núi Jayawijaya.
Chia tay với những người Dani, chúng tôi lại lên đường tìm đến những chiến binh Yali, những người được các bộ tộc khắp nơi trong dãy núi Jayawijaya nể trọng, vì xưa kia tổ tiên của họ có tục săn đầu người, và luôn giành chiến thắng trong các cuộc chiến, khi chiến thắng kẻ thù, họ ăn thịt, và nghiền xương thành bột rải khắp rừng, chính vì vậy các bộ tộc khác đều khiếp sợ.
Hành trình đường đi chúng tôi may mắn gặp được già Roni, một chiến binh Yali lẫy lừng khắp phía tây của dãy Jayawijaya bởi ông đã từng lãnh đạo những cuộc chiến đẫm máu. Ông hào hứng chỉ cho chúng tôi những vết sẹo trên mặt, trên bụng, do bị tên bắn, và kể mình đã từng ăn thịt một bàn chân kẻ thù và xẻ thịt hắn chia cho dân làng. Ông kể về cuộc chiến: "Người Yali chúng tôi mỗi khi ra trận không có khái niệm thua cuộc, chúng tôi sắp xếp chiến binh theo ba lớp, những người thấp bé ở lớp đầu tiên, khỏe mạnh ở sau cùng, lớp trước ngã thì lớp sau tràn lên". Chính cách chiến đấu dũng mãnh ấy đã khiến các chiến binh Yali làm chủ cả vùng núi rừng rộng lớn, và khiến các dân tộc khắp nơi nể sợ, dù có thân hình rất nhỏ bé với chiều cao chỉ từ 1,5 m đổ lại.
Những kiểu trang phục độc đáo
Dù có đời sống hoang dã, săn bắt hái lượm, nhưng các bộ tộc ở Irian Jaya rất chú trọng đến việc bảo tồn nòi giống, bằng chứng là họ sử dụng một dụng cụ che dương vật cho đàn ông rất độc đáo, có tên gọi là Koteka. Và nhìn vào Koteka sẽ phân biệt được người đó thuộc bộ tộc gì. Với người đàn ông Dani, chiếc Koteka nhỏ nhắn, vừa vặn với kích cỡ người sử dụng, có độ dài vừa phải chừng 30cm. Phụ nữ Dani để ngực trần, che thân bằng váy được làm từ một loại cỏ mọc khắp các cánh rừng ở Irian Jaya.
Koteka của người Lani là độc đáo nhất, vì ngoài công dụng che thân, nó còn được dùng để chứa đồ dùng, khi thì một nùi thuốc lá, hay mớ đậu phộng, khi thì miếng thịt rừng, hoặc cả con gà, tất cả những gì có thể bỏ vừa vào quả bầu to đùng che dương vật là người đàn ông Lani nhét hết vào, đậy lại bằng một mớ lá rừng. Trong đời sống thường ngày, người Lani là một bộ tộc rất yêu thiên nhiên, yêu màu sắc, với kiểu trang điểm gương mặt bằng than và các màu từ cây rừng rất sinh động và đẹp mắt.
Koteka của người Yali nhỏ nhắn như của đàn ông Dani nhưng dài hơn, vì còn kiêm thêm nhiệm vụ làm "giàn giáo" để nâng bộ trang phục là hơn 100 vòng mây bao quanh phần thân từ ngực xuống đến hạ thể theo chiều từ nhỏ đến lớn trông như chiếc váy kỳ lạ. Phụ nữ Yali mặc váy có phân theo lớp, mỗi lớp tương đương với 4 tuổi, nếu thấy phụ nữ Yali mặc chiếc váy có 4 lớp, đồng nghĩa là cô ta đã đến tuổi lấy chồng.
Từ thành phố Hồ Chí Minh, muốn đến được nơi ở của những bộ tộc Yali, Dani, và Lani đang sinh sống, hành trình bay sẽ phải qua: Singapore - Jakarta - Ujung Pan dang (Makassar) - Biak - Jayapura - Wamena. Đây là hành trình bay dày nhất được biết đến trong khu vực Đông Nam Á với 24 giờ đồng hồ di chuyển liên tục.
Thị trấn Wamena, được người Hà Lan phát hiện và khai phá vào năm 1938 .Hành trình đến thị trấn này chỉ có duy nhất đường hàng không vì xung quanh thị trấn là núi rừng bao phủ, hoàn toàn không có đường bộ. Tất cả những gì có được ở thị trấn này, từ con gà, con trâu, cục gạch...đều được di chuyển từ Jayapura đến bằng máy bay vận tải, vì vậy vật giá nơi đây đắt từ 4-5 lần so với cuộc sống ở thủ đô Jakarta.
Irian Jaya có diện tích 422.000 km vuông, với dân số khoảng 2 triệu người, nhưng có đến hơn 250 ngôn ngữ của những bộ tộc khác nhau. Do địa hình hiểm trở, phức tạp, và các bộ tộc đều có tục săn đầu người và ăn thịt, vì vậy rất ít những bước chân khám phá. Do vậy, đây là vùng đất được xem là rất xa lạ với thế giới văn minh.
Theo Nguyễn Đình