Giới phân tích quốc tế không tỏ ra ngạc nhiên vềđộng thái điều chỉnh tỷ giá tham chiếu USD/VND ngày 11/2 của Ngân hàng Nhà nước,nhưng bất ngờ về mức độ của lần điều chỉnh này. Bên cạnh đó, họ cũng cảnh báo vềvấn đề lạm phát và khuyến cáo Việt Nam nên thắt chặt hơn chính sách tiền tệ.

Đầu giờ sáng nay (11/2), Ngân hàng Nhà nước công bố cơ chế điều hành tỷ giá mới.Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng lênmức 20.693 VND/USD (tăng 9,3% so với mức 18.932 VND trước đó) và thu hẹp biên độgiao dịch từ +/-3% xuống +/-1%, áp dụng cho ngày 11/2/2011.

Theo nhiều chuyên gia nước ngoài, động thái này có mang ý nghĩa tích cực. Cácchuyên gia thuộc ngân hàng Standard Charterd cho rằng, việc tăng tỷ giá thamchiếu USD/VND sẽ làm giảm bớt những áp lực đối với dự trữ ngoại hối của ViệtNam, hỗ trợ tích cực cho lĩnh vực xuất khẩu, theo đó làm giảm bớt áp lực đối vớicán cân thương mại.

Dư luận quốc tế về việc Việt Nam điều chỉnh tỷ giá

Đây là lần điều chỉnh tỷ giá thứ tư của Việt Nam kể từ tháng 11/2009

Quỹ Tiền tệQuốc tế (IMF) tỏ ý hoan nghênh động tháinày của Ngân hàng Nhà nước, xem đây làmột nỗ lực để thu hẹp khoảng cách giữatỷ giá chính thức và tỷ giá “chợ đen”.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, các nhà phântích quốc tế cũng lên tiếng cảnh báo vềkhả năng leo thang của lạm phát và áplực đối với triển vọng tín nhiệm nợ củaViệt Nam sau khi tỷ giá tham chiếu đượcđiều chỉnh tăng.

“Lần điều chỉnh tỷ giá mới nhất này cóthể dẫn tới tình trạng lạm phát nhậpkhẩu cao hơn trong những tháng tới, đặcbiệt khi giá hàng hóa cơ bản trên thếgiới tăng cao”, tờ Financial Times dẫnmột báo cáo ra ngày 11/2 của StandardChartered.

Nhiều tờ báo và hãng tin lớn khác nhưWall Street Journal, Bloomberg hayReuters đều chung nhận định rằng, khônggiống như xu hướng đang diễn ra ở nhiềunền kinh tế châu Á khác - nơi đồng tiềnđang tăng giá vì áp lực dòng vốn ngoạiđổ vào và kinh tế phục hồi mạnh - đồngVND của Việt Nam thời gian qua đã liêntục mất giá so với USD.

Reuters nhấn mạnh, đây là lần điều chỉnhtỷ giá thứ tư của Việt Nam kể từ tháng11/2009. Wall Street Journal chỉ rõ, với4 lần điều chỉnh này, đồng VND đã yếu đi13,6% so với USD.

Lần điều chỉnh tỷ giá ngày 11/2 diễn ratrong bối cảnh thâm hụt thương mại củaViệt Nam tiếp tục ở mức cao - đạt 1 tỷUSD trong tháng 1 vừa qua, lạm phát cũnglên tới 12,17% trong tháng 1. Bên cạnhđó, dự trữ ngoại hối của Việt Nam - theosố liệu mà IMF đưa ra - là 14,1 tỷ USDtính tới cuối tháng 9 năm ngoái.

Nhiều chuyên gia nước ngoài được các tờbáo và hãng tin lớn phỏng vấn đều chobiết, động thái điều chỉnh tỷ giá lầnnày không gây bất ngờ, nhưng mức điềuchỉnh 9,3% ít nhiều khiến họ ngạc nhiên.

Phát biểu trên Bloomberg, ông DariuszKowalczyk, chuyên gia kinh tế cao cấpcủa ngân hàng Credit Agricole CIB tạiHồng Kông cho biết, ông ngạc nhiên vềmức điều chỉnh của lần điều chỉnh tỷ giáUSD/VND này. “Dường như Việt nam đang nỗlực hỗ trợ cho lĩnh vực xuất khẩu vàtăng trưởng kinh tế thay vì chống lạmphát. Điều này thật đáng ngạc nhiên vìlạm phát đang là một vấn đề lớn của ViệtNam”, ông Kowalczyk nói.

Trao đổi với tờ Wall Street Journal,chuyên gia kinh tế Prakriti Sofat thuộcngân hàng Barclays cũng cho rằng “mức độđiều chỉnh tỷ giá này là lớn hơn so vớinhững gì mà thị trường dự báo”.

Các chuyên gia nhận định, VND vẫn đangchịu áp lực giảm giá. Theo StandardCharterd, áp lực này đến từ rủi ro trongcán cân thanh toán, lạm phát và chủtrương theo đuổi tăng trưởng của Chínhphủ Việt Nam.

“Vấn đề ở đây là niềm tin. Vẫn còn đónhững áp lực giảm giá đối với VND”,chiến lược gia Nizam Idris thuộc ngânhàng UBS tại Singapore nói vớiBloomberg.

Giới phân tích nước ngoài có những ýkiến khuyến nghị đối với Việt Nam vềviệc khắc phục những hạn chế mà việcđiều chỉnh tỷ giá có thể đem lại. Trongđó, vấn đề nổi cộm nhất nằm ở lãi suất.
 
“Mặc dù Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tỏra khá hài lòng với mức lãi suất hiệnnay, chúng tôi nhận thấy cần có mức lãisuất cao hơn để phòng ngừa những rủi rokinh tế tăng trưởng quá nóng”, StandardChartered nhận định.

Ông Benedict Bingham, đại diện IMF tạiViệt Nam, cho rằng, Việt Nam cần “mộtgói chính sách đồng bộ để phục hồi sự ổnđịnh kinh tế vĩ mô”. “Chính sách tiền tệcần tập trung mạnh mẽ hơn vào kiềm chếlạm phát, trong khi chính sách tài khóacần chú trọng hơn vào kiểm soát nợcông”, ông Bingham phát biểu trênBloomberg.

Một vấn đề nữa được giới quan sát quốctế nhắc tới nhiều khi Việt Nam điềuchỉnh tỷ giá lần này là triển vọng tínnhiệm nợ công. Việc tăng giá USD so vớiVND có thể làm tăng số nợ quốc gia củaViệt Nam nếu quy ra nội tệ.

Tháng 12 vừa qua, Moody’s InvestorsService đã cắt giảm điểm tín nhiệm nợcông của Việt Nam xuống B1 từ Ba3, vớicác lý do về rủi ro cán cân thanh toán,áp lực mất giá đối với tiền đồng, lạmphát tăng, rủi ro bất ổn kinh tế vĩmô... Sau khi Ngân hàng Nhà nước điềuchỉnh tỷ giá, Moody’s nhận định, độngthái này hỗ trợ cho mức triển vọng tiêucực mà họ dành cho điểm tín nhiệm nợcông hiện nay của Việt Nam.

Trên Wall Street Journal, nhà phân tíchnợ quốc gia Andrew Colquhoun của hãngđịnh mức tín nhiệm Fitch Ratings nhậnxét, động thái điều chỉnh tỷ giá lần nàycủa Việt Nam xuất phát từ những áp lựctrong cán cân thanh toán, do Việt Nam cóthâm hụt vãng lai lớn và mức dự trữngoại hối thấp.

Hồi tháng 7/2010, Fitch giảm điểm tínnhiệm của Việt Nam 1 bậc xuống B+, vớitriển vọng là ổn định. Ông Colquhoun chobiết: “Nếu việc điều chỉnh tỷ giá khôngngăn được dòng vốn chảy khỏi Việt Nam vàdự trữ ngoại hối của Việt Nam tiếp tụcchịu áp lực giảm, chúng tôi sẽ cân nhắcviệc thay đổi điểm tín nhiệm của ViệtNam”.

Theo Kiều Oanh
VnEconomy