Từ năm 1998 đến nay, giá chèxuất khẩu trung bình của thế giới đã tăng 18%, nhưng giá xuất khẩu chè của ViệtNam lại giảm tới 20%.
1,52 USD/kg là mức giá xuất khẩungành chè nước ta đã đạt được vào năm 1998. Nhưng từ đó đến nay, giá chè củanước ta liên tục “cài số lùi”.
Báo cáo tổng quan phát triển ngành chè trong 10 năm (1999-2009) tại “Hội nghịQuốc tế Chè Việt Nam lần thứ hai”, được tổ chức sáng 30/7 cho thấy: 10 năm qua,các chỉ tiêu về sản lượng chè khô, sản lượng xuất khẩu, năng suất bình quân,diện tích vùng nguyên liệu… ngành chè đều đạt và vượt kế hoạch.
![]() |
Hiện năng lực chế biến của toàn ngành đã cao hơn 2 lần so với khả năng đáp ứng của vùng nguyên liệu. |
Nhưng riêng chỉ tiêu kim ngạchvào năm 2009 là 200 triệu USD thì ngành mới chỉ đạt được 179 triệu USD. Về giáchè xuất khẩu, phấn đấu đạt mức 1,8 USD/kg cũng mới chỉ được 1,4 USD/kg.
Điều đáng nói là giá chè xuất khẩu của Việt Nam trong 10 năm qua không nhữngkhông tăng lên mà ngày càng có khoảng cách xa hơn so với giá trung bình ở cácsàn đấu giá lớn trên thế giới như: Calcutta, Colombo, Monbasa.
Mức giá “đỉnh” sản phẩm chè Việt Nam đã đạt được là 1,52 USD/tấn vào năm 1998.Tại thời điểm đó, mức giá trung bình tại 3 sàn đấu giá trên là 2,01 USD/kg.
Đến năm 2009, khi giá chè trung bình tại các sàn này tăng lên là 2,43 USD/kg thìgiá chè của Việt Nam lại rơi xuống mức 1,23 USD/kg. So với giá xuất khẩu vào năm1998 và năm 2009 đã giảm gần 20%, trong khi mức giá trung bình của thế giới đãtăng khoảng 18%.
Đây cũng chính là lý do khiếnViệt Nam hiện đang là quốc gia đứng thứ 5 trên thế giới về sản lượng chè cũngnhư xuất khẩu, nhưng tên tuổi vẫn chưa được người tiêu dùng trên thế giới biếtđến.
Theo ông Đoàn Anh Tuân, Chủ tịch Hiệp hội chè Việt Nam (Vitas), nguyên nhân củatất cả những điều này là do sự cạnh tranh không lành mạnh giữa chính các doanhnghiệp trong nước. Nhiều doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận trước mắt đã sản xuấtvà xuất khẩu những sản phẩm chè kém chất lượng làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới uytín của ngành chè Việt Nam.
Thêm vào đó, năng lực chế biến của toàn ngành đang gấp hai lần so với khả năngcung cấp nguyên liệu. Vấn đề quản lý chất lượng sản phẩm, đặc biệt là vệ sinh antoàn thực phẩm lại chưa được quan tâm đúng mức.
Về phía doanh nghiệp vẫn còn tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nhà nước. Phần lớn vẫnchỉ muốn “hớt váng”, còn né tránh đầu tư vào phát triển vùng nguyên liệu cũngnhư trách nhiệm với cộng đồng và người tiêu dùng.
|
Đại diện công ty Tea Estate Agencies một khách hàng lớn của ngành chè Việt Nam,bà Nguyễn Thu Hằng còn cho rằng: sở dĩ giá chè xuất khẩu của Việt Nam thấp là docác loại chè chưa bắt kịp với nhu cầu luôn thay đổi của thế giới.
Tồn dư thuốc trừ sâu trong chè xuất khẩu ở mức cao hơn nhiều so với quy định củaEU. Tiếp đến là chưa xây dựng được thương hiệu cho sản phẩm chè trên thị trườngthế giới. Nguồn cung tuy dồi dào nhưng nhiều doanh nghiệp còn thiếu sự tuân thủcác hợp đồng trong dài hạn…
Với tư cách là nhà nhập khẩu, bà Hằng cho biết Tea Estate Agencies sẵn sàng muachè của Việt Nam với giá tốt hơn nếu các doanh nghiệp kiểm soát được việc sửdụng thuốc trừ sâu và lượng tồn dư trên sản phẩm. Sản phẩm được giao phải cóchất lượng tốt đúng như mẫu chào hàng.
“Việc giao hàng không giống với cam kết trong hợp đồng không chỉ khó khăn chocông ty trong khâu tiếp thị, bán hàng cho người đóng gói mà còn làm giảm uy tíncủa chè có xuất xứ từ Việt Nam”, bà Hằng nói.
Tán đồng với ý kiến trên, ông Muhammad Hanif Janoo, Chủ tịch Hiệp hội chèPakistan cho hay: với 99% dân số uống chè, mỗi năm quốc gia này tiêu thụ khoảng190.000- 200.000 tấn chè. Pakistan sẵn sàng trả giá cao hơn cho chè Việt Nam vớiđiều kiện chất lượng phải ổn định. Thậm chí, quốc gia này còn muốn đầu tư vàongành chè với tư cách là đối tác kinh doanh để sản phẩm chè được sản xuất theoyêu cầu tiêu dùng của người dân Pakistan.
Trước ý kiến của các đại biểu tham gia hội nghị, ông Đoàn Anh Tuân khẳng địnhchỉ có đổi mới ngành chè Việt Nam mới có thể phát triển. Theo đó, Vitas đề nghịcác cơ quan chức năng của nhà nước cần có những quyết sách thật “mạnh tay” đốivới các nhà sản xuất và xuất khẩu chè không tuân thủ các quy định.
Về định hướng phát triển ngành chè trong thời gian tới, ông Lê Xuân, Cục trưởngCục Chế biến Thương mại Nông, Lâm, Thủy sản và Nghề muối cho rằng: ngành cầnphải phát triển trên cơ sở thiết lập mối liên kết kinh tế chặt chẽ giữa doanhnghiệp chế biến với người trồng chè; kết hợp phát triển công nghiệp chế biếnhiện đại với đầu tư công nghệ truyền thống.
Bên cạnh đó, nên chú trọng sản xuất các loại chè đặc sản, chất lượng cao phù hợpvới quy mô từng vùng vùng nguyên liệu, từng địa phương, thay vì sản xuất quánhiều sản phẩm chè chất lượng thấp như hiện nay.
Theo Thời bào kinh tế