Trong điều kiện mặt bằng lãi suất cao thì việc duy trì chính sách lãi suất caosẽ dẫn tới hệ quả là các khoản vay xấu (non-performing loans) tăng lên, làm tổnhại tới tính hiệu quả của chính sách này, và do vậy sẽ tối ưu nếu thực hiệnchính sách lãi suất thấp.

Nhìn rộnghơn, các ngân hàng sẽ nhận thấy sự nguy hiểm của hậu quả nợ xấu đến từ lãi suấtcao và dẫn tới việc hạn chế tín dụng tự nguyện trong nền kinh tế. Một nền kinhtế mà chức năng tín dụng không hoạt động thì nền kinh tế không phát triển được.Khi đó, sự khan hiếm hàng hóa đẩy giá cả hàng hóa ở chu kỳ tiếp theo.

Về giải phápcụ thể, có thể nói rằng chúng ta đã bỏ qua cơhội tuyệt vời khi quyết địnhthả nổi lãi suất và nâng lãi suất cơ bản - điều đã gây ra hiệu ứng tâm lý rằnglãi suất phải tăng - mà không có các giải pháp đi kèm. Nói cách khác, hiện tạichúng ta lại đang trở lại trạng thái trước khi thả nổi lãi suất, nhưng mặt bằnglãi suất đã cao hơn, với sự đóng góp lớn của hiệu ứng tâm lý.

Việc thả nổi lãisuất có thể là một giải pháp đúng về cách tiếp cận, nhưng rõ ràng câu trả lờicho việc giảm mặt bằng lãi suất phải nằm ở các giải pháp đi kèm.

Ngoài việckêu gọi sự đồng thuận và các giải pháp có thể khác, chúng tôi cho rằng Ngân hàngNhà nước có thể thực hiện việc mua lại trái phiếu chính phủ cả trên thị trườngsơ cấp và thứ cấp, đồng thời phối hợp với Bộ Tài chính trong việc tính toán giảmkhối lượng trái phiếu phát hành thêm một cách hợp lý.

Thời gianqua, Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng công cụ thị trường mở (OMO) nhằm hỗ trợ thanhkhoản và giảm chi phí vốn đầu vào cho ngân hàng thương mại với mục tiêu hạ dầnmặt bằng lãi suất huy động và cho vay. Tuy nhiên kết quả trên thực tế chưa đượcnhư mong muốn do:

Hiện tại, đểvay được vốn của Ngân hàng Nhà nước thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu trên OMOthì các ngân hàng thương mại phải có trái phiếu Chính phủ như là tài sản cầm cố.Trên thực tế thì chỉ có một số các ngân hàng thương mại nắm giữ phần lớn lượngtrái phiếu Chính phủ đang lưu hành, và do vậy các ngân hàng thương mại này đượchưởng lợi từ chênh lệch lãi suất trái phiếu Chính phủ (khoảng 10%) và lãi suấttái chiết khấu (7-9%). Vị thế này là vị thế “tiền rẻ độc quyền”.

Các ngânhàng này tuy vậy lại không (hoặc ít) sử dụng nguồn vốn tái chiết khấu và cóchênh lệch lãi suất này để cho vay và hạ lãi suất cho vay doanh nghiệp mà lạidùng để kinh doanh trên thị trường liên ngân hàng do việc kinh doanh này hiểnnhiên an toàn hơn và mức độ sinh lợi cao hơn.

Giảm lãi suất và vai trò của Ngân hàng nhà nước
Thả nổi lãi suất gây hiệu ứng tâm lý "lãi suất sẽ phải tăng" nếu không có giải pháp đi kèm

Vị thế “tiềnrẻ độc quyền” trên OMO do việc nắm giữ lượng lớn trái phiếu Chính phủ của mộtnhóm các ngân hàng lớn đã đẩy lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tăng cao,đặc biệt là trong thời gian gần đây khi thanh khoản của hệ thống ngân hàng khókhăn do người dân rút tiền đầu cơ vàng và USD, tạo sức ép buộc các ngân hàngthương mại nhỏ đẩy lãi suất huy động trên thị trường 1 lên cao hơn, tạo ra cuộcđua lãi suất huy động trong toàn hệ thống ngân hàng.

Do đó, việcđẩy mạnh cấp vốn trên thị trường OMO của Ngân hàng Nhà nước không phải là giảipháp hữu hiệu và lâu bền để đạt mục tiêu như mong muốn. Về nguyên tắc, điều quantrọng là phải làm sao để vị thế “tiền rẻ độc quyền” không còn nữa, hay nói khácđi là làm cho chênh lệch giữa tỷ suất trái phiếu chính phủ và lãi suất chiếtkhấu không còn có lợi cho các ngân hàng thương mại lớn nữa, theo hướng khuyếnkhích họ cho vay ra với doanh nghiệp thay vì kinh doanh trên thị trường liênngân hàng.

Điều nàykhông thể giải quyết bằng bài toán “đồng thuận”, mà phải bằng bài toán kinh tế.Nếu chỉ đẩy lãi suất tái chiết khấu lên cao thì không giúp giảm mặt bằng lãisuất và cũng không tạo ra nguồn cung tiền đồng để cho vay.

Do vậy, Ngânhàng Nhà nước nên thực hiện mua lại trái phiếu Chính phủ trên cả thị trường sơcấp và thứ cấp, đồng thời giảm dần việc cung tiền ngắn hạn trên OMO. Việc làmnày sẽ có tác dụng như sau:

Khi giảm dầnlượng cung tiền trên thị trường OMO đồng thời tăng cường việc mua trái phiếuChính phủ trên thị trường thứ cấp thì các ngân hàng thương mại đang nắm giữ tráiphiếu Chính phủ sẽ lựa chọn bán ra thu tiền Đồng về để cho vay.

Điều này là dokhi giảm cung tiền ngắn hạn qua OMO, trái phiếu Chính phủ không còn chức năng làtài sản cầm cố để vay vốn Ngân hàng Nhà nước với lãi suất thấp hơn tỷ suất tráiphiếu Chính phủ thì về nguyên tắc các ngân hàng thương mại sẽ lựa chọn bán tráiphiếu Chính phủ ra do lãi suất trái phiếu Chính phủ thấp hơn lãi suất huy độngtiết kiệm (10% so với khoảng 13-15%) nên việc nắm giữ trái phiếu Chính phủ khôngcó lợi.

Vị thế tiền rẻ của các ngân hàng thương mại lớn khi đó sẽ giảm và họ sẽkhó khăn hơn trong việc ép các ngân hàng nhỏ trên thị trường liên ngân hàng, gópphần làm giảm cuộc đua lãi suất trên thị trường 1.

Việc Ngânhàng Nhà nước mua lại trái phiếu Chính phủ trên thị  trường thứ cấp là cách thứccung tiền dài hạn hơn so với cung tiền trên thị trường OMO, do đó các ngân hàngthương mại có thể dùng nguồn tiền đó để cấp tín dụng chứ không phải để bủ đắpthiếu hụt thanh khoản tạm thời như hiện nay.

Việc Ngânhàng Nhà nước mua trái phiếu Chính phủ trên thị  trường sơ cấp (trái phiếu Chínhphủ phát hành lần đầu) sẽ góp phần hạ lãi suất trái phiếu Chính phủ xuống mứchợp lý, giảm gánh nặng trả lãi cho ngân sách nhà nước, gián tiếp giảm mặt bằnglãi suất huy động và cho vay của hệ thống ngân hàng, đồng thời cũng sẽ giúp đảmbảo rằng việc Ngân hàng Nhà nước mua trái phiếu Chính phủ trên thị trường thứcấp không gây ra áp lực tăng lãi suất trái phiếu Chính phủ phát hành lần đầu.

Phương phápnêu trên cũng tương tự như cách mà Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) thực hiện vớigói nới lỏng định lượng 2 (QE2) mà họ mới công bố gần đây và  được biết tới tạiViệt Nam như là “gói hỗ trợ kinh tế lần hai trị giá 600 tỷ USD”. Cụ thể, FED đặtra mục tiêu sẽ mua vào 105 tỷ mỗi tháng bao gồm 75 tỷ trái phiếu Chính phủ Mỹtrên thị trường thứ cấp và 30 tỷ trên thị trường sơ cấp cho đến hết quý 2/2011.

Chúng tôiđưa ra hai lập luận quan trọng. Thứ nhất, việc thắt chặt tiền tệ, mà hệ quả làtăng mặt bằng lãi suất, không hẳn đã là lời giải cho kiềm chế lạm phát và ổnđịnh kinh tế vĩ mô tại Việt Nam. Theo chúng tôi nên giảm mặt bằng lãi suất. Lýdo chính cho lập luận này là mặt bằng lãi suất cao tạo ra nguy cơ cao về vòngluẩn quẩn.

Thứ hai,giảm mặt bằng lãi suất có thể thực hiện được, nếu Ngân hàng Nhà nước thực hiệnmua trái phiếu trên thị trường thứ cấp và sơ cấp, qua đó giảm vị thế “tiền rẻđộc quyền” của các ngân hàng thương mại lớn và hạn chế cuộc đua lãi suất huyđộng của các ngân hàng thương mại nhỏ trên thị trường 1.

Vậy mức lãisuất cho vay khoảng bao nhiêu là hợp lý với nền kinh tế Việt Nam? Rõ ràng mặtbằng lãi suất không thể quá rẻ vì sẽ khuyến khích đầu tư không hiệu quả gây lạmphát (như thời kỳ kích thích kinh tế, ICOR năm 2009 ở mức gần 9 lần), nhưng mặtkhác cũng không thể quá cao làm cho doanh nghiệp khó khăn và kinh tế trì trệ.Chúng tôi cho rằng mặt bằng lãi suất cho vay tại Việt Nam nên được duy trì trongkhoảng 11-14%.

Theo Quách Mạnh Hào
Bee