Đi bộ hàng chục cây số, chia sẻ cuộc sống thiếu thốn với người dân là những việc làm hết sức bình thường của những người giáo viên bám bản.
|
Ở tỉnh miền núi Tuyên Quang hiện có hơn 450 điểm trường ở bậc tiểu học và hơn 800 điểm trường bậc học mầm non.
|
Các điểm trường này ở những thôn, bản xa trung tâm, đường xá đi lại rất khó khăn.
|
Muốn đến được điểm trường Khuổi Củng, xã Xuân Lập (huyện Lâm Bình) vào những ngày mưa phải đi bộ cả chục cây số.
|
|
Điểm
trường này là nơi học tập của con em đồng bào dân tộc Mông hai thôn
Khuổi Trang – Khuổi Củng. Cơ sở vật chất được đầu tư khá khang trang,
nhưng đường xá và thông tin là nỗi ám ảnh đối với những giáo viên bám
bản.
|
Nơi duy nhất “bắt” được sóng điện thoại ở điểm trường Khuổi Củng.
|
Muốn đến được điểm trường Trung Phìn, xã Sinh Long (huyện Na Hang) phải đi bộ xuyên rừng 3 giờ đồng hồ.
|
Mỗi thầy, cô giáo phải đảm đương 2 lớp học.
|
Những lớp học đặc biệt như thế này là chuyện phổ biến ở những địa phương vùng cao.
|
Ở bậc học mầm non, các điểm trường được ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất.
|
Giáo
viên bám bản ở bậc học này có phần đỡ vất vả hơn giáo viên tiểu học. Các
điểm trường chưa có điện lưới được trang bị điện năng lượng mặt trời.
|
|
Các giáo viên vừa dạy tiếng phổ thông, vừa dạy theo chương trình học vừa chăm sóc trẻ.
|
Giáo viên bám bản đã trở thành người mẹ thứ 2 của các em
|
Trong 3 năm trở lại đây, tỉnh Tuyên Quang đã sắp xếp, bố trí để giảm gần 300 điểm trường.
|
Những điểm trường còn lại nằm ở các thôn, bản quá khó khăn, không thể dồn, ghép.
|
Nguồn
động viên ý nghĩa nhất đối với giáo viên bám bản là tình cảm và sự quý
trọng của người dân vùng cao dành cho họ. Ở các thôn, bản, các giáo viên
bám bản đã thực sự trở thành những người thân trong gia đình.
Theo VOV