Hải quân Ấn Độ đang tăngcường sức mạnh ở miền đông. Vùng ven biển miền đông nước này đang chứng kiếnsự củng cố và mở rộng một cách đều đặn từ những lực lượng vũ trang.
|
Giờ đây, xu thế đang thayđổi. Các nhà chiến lược ngày càng "gán" một vai trò lớn hơn cho bộ chỉ huymiền đông trong chiến lược hải quân và chính sách đối ngoại của Ấn Độ. Độngthái này một phần bắt nguồn từ nhận thức về sự hiện diện hải quân của TrungQuốc ở Vịnh Bengal và Ấn Độ Dương. Tuy nhiên, nó cũng là một phần của nỗ lựckéo dài hai thập niên qua mà Ấn Độ thực hiện tập trung vào ngoại giao, kinhtế và sức mạnh quân sự trong chiến lược tổng thể gọi là "Hướng Đông". Bêncạnh đó, định hướng hướng đông mới của hải quân Ấn Độ còn nhằm mục tiêu tạolập cho nước này vị thế là một người chơi quan trọng trong cấu trúc an ninhmới nổi của châu Á - Thái Bình Dương.
Hải quân Ấn Độ đứng thứ nămthế giới với ba bộ chỉ huy chính miền tây, miền đông và miền nam. Bộ chỉ huymiền đông đóng ở Visakhapatnam thuộc Andhra Pradesh là căn cứ của lực lượngtàu ngầm hải quân Ấn Độ. Một đơn vị chỉ huy chung thành lập năm 2001 tạiCảng Blair thuộc quần đảo Andaman và Nicobar.
Bộ chỉ huy hải quân miền đông được tăng cường đáng kể trong vài năm gần đây.Năm 2005, đơn vị này có 30 tàu chiến. Sáu năm sau đó, con số này tăng lên 50- gần bằng 1/3 toàn bộ sức mạnh hạm đội của Hải quân Ấn Độ - và sẽ tiếp tụctăng hơn nữa.
Tàu sân bay duy nhất của ẤnĐộ INS (Indian Naval Ship) Viraat sẽ được bàn giao cho bộ chỉ huy miền đôngsau khi INS Vikramaditya (nâng cấp từ tàu sân bay của Nga mang tên Đô đốcGorshkov) gia nhập bộ chỉ huy miền tây. Toàn bộ năm tàu khu trục trang bịtên lửa dẫn đường lớp Rajput (nâng cấp từ các phiên bản tàu khu trục lớpKashin của Nga) từng ở bộ chỉ huy miền tây cũng đã gia nhập hạm đội miềnđông.
Con tàu duy nhất mà Hải quânẤn Độ mua từ Mỹ, tàu đổ bộ USS Trenton, giờ đây đổi tên thành INS Jalashwa,đã thuộc về bộ chỉ huy miền đông. Nó sẽ sớm hoạt động chung với các tàu khutrục tàng hình sản xuất nội địa INS Shivalik, INS Satpura và INS Sahyadricũng như máy bay tuần tra hàng hải tầm xa P-8I Poseidon sản xuất ở Mỹ và tàuchở dầu mới mua từ Italy, INS Shakti.
Bộ chỉ huy miền tây cũng sẽchịu trách nhiệm về các tàu ngầm hạt nhân của Ấn Độ. INS Arihant, trong quátrình thử nghiệm trên biển đã được xây dựng ở Visakhapatnam. Hai tàu ngầmhạt nhân khác cũng đang được chế tạo tại đây. Bộ chỉ huy này có các căn cứ ởVisakhapatnam và Kolkata, cũng như sẽ sớm có một căn cứ mới ở Tuticorin vàParadeep. Ngoài các sân bay quân sự hải quân ở Dega và Rajali, bộ chỉ huymiền đông đã có thêm một sân bay mới là INS Parundu tại Uchipuli, nơi triểnkhác các máy bay do thám không người lái. Thông tin trên các phương tiệntruyền thông đã bóng gió về một căn cứ tàu ngầm hạt nhân ở đâu đó gầnVisakhapatnam. Mang mật danh Varsha, dự án này vẫn nằm trong diện phải giữkín.
Khoảng cách giữa các bộ chỉhuy miền tây và miền đông dường như thu hẹp dần. Trong bối cảnh gia tăng ảnhhưởng và sức mạnh của bộ chỉ huy miền đông, Hải quân Ấn Độ gần đây đã raquyết định thăng cấp cho các tướng lĩnh miền đông ngang hàng với các cộng sựtại bộ chỉ huy hải quân miền tây.
Mối lo Trung Quốc
Bờ biển phía đông Ấn Độ giápvới sáu quốc gia ven biển: Sri Lanka, Bangladesh, Myanmar, Thái Lan,Malaysia và Indonesia - xuyên qua Vịnh Bengal. Quần đảo Andaman và Nicobarcủa Ấn Độ nằm giữa bờ biển phía đông và Eo biển Malacca.
Trung Quốc, dù không phải làquốc gia ven biển nằm trong Vịnh Bengal hay Ấn Độ Dương, nhưng đang ngàycàng củng cố sự hiện diện của mình trong các khu vực này bằng cách xây dựngcác mối quan hệ chính trị, kinh tế và quốc phòng mạnh mẽ với các nước venbiển, bao gồm cả dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, cầu cảng hải quân/thương mạivới hai mục đích sử dụng (dân sự và quân sự).
Bên cạnh Gwadar ở Pakistannằm trong Biển Ảrập, Trung Quốc còn đang xây các cảng ở Hambantota thuộc SriLanka và Chittagong ở Bangladesh. Tại Myanmar, họ tiến hành nâng cấp một sốcảng ở Sittwe, Kyaukpyu, Bassein, Mergui và Yangon, đồng thời xây dựng nhữngcơ sở radar, tiếp nhiên liệu tại những căn cứ hải quân ở Hainggyi, Akyab,Zadetkyi và Mergui.
Sự hiện diện của Trung Quốc ởcác cảng này hiện tại có thể là vô hại. Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích Ấn Độcảnh báo rằng, Bắc Kinh có thể sử dụng những cảng họ đầu tư cho mục đíchquân sự hoặc chiến lược. Giới phân tích nói, khi đã thiết lập ảnh hưởng vữngchắc ở các nước này, những yêu cầu của Trung Quốc cũng sẽ dần có được.
Và điều ấy sẽ mang hải quânTrung Quốc tới Vịnh Bengal, Ấn Độ Dương. Trong khi giới phân tích tin là,Trung Quốc phải mất nhiều năm, nếu không phải là vài thập niên để đủ khảnăng hỗ trợ và duy trì việc triển khai hải quân ở Ấn Độ Dương, thì rõ rànglà Ấn Độ đã chuẩn bị ứng phó bằng cách tăng cường bộ chỉ huy hải quân miềnđông. Ngoài nỗ lực này, hải quân Ấn Độ còn xây dựng các mối quan hệ thôngqua nhiều chuyến thăm cảng, diễn tập chung với hải quân các nước châu Á -Thái Bình Dương - trong đó có nhiều quốc gia "thận trọng" với Trung Quốc.
Theo giới phân tích, trongkhi các cuộc tập trận hải quân chung nhằm mục tiêu phát triển khả năng tươngtác giữa các hạm đội tham dự, thì động thái giữa hải quân Ấn Độ và một sốquốc gia khác tại vịnh Bengal cũng còn là để gửi thông điệp tới hải quânTrung Quốc rằng tương lai hiện diện của họ ở Ấn Độ Dwong sẽ không phải làđiều dễ dàng.
Sự tham dự của bộ chỉ huymiền đông trong các cuộc tập trận song phương, đa phương ngày càng tăng suốtthập niên qua. Kể từ đầu những năm 1990, hải quân Ấn Độ đã tập trận với hảiquân các nước Singapore, Indonesia và Malaysia.
Người chơi có tầm ảnh hưởng
Vào tháng 9/2007, lần đầutiên, cuộc tập trận Ấn Độ - Mỹ mang tên Malabar (thường diễn ra ở Biển Ảrập)đã được tổ chức ở vùng ven biển phía đông Ấn Độ, và còn có sự tham dự củaSingapore, Nhật Bản, Australia. Hải quân Ấn Độ cũng "tiếp cận" Biển Đông -khu vực mà Trung Quốc mô tả là một "lợi ích cốt lõi" cũng như Thái BìnhDương bằng các chuyến thăm cảng hay tập trận chung. Tuy nhiên, Ấn Độ phủnhận các cuộc diễn tập của họ là không nhằm cụ thể vào bất cứ nước nào. Thựctế là, họ cũng đã tập trận với hải quân Trung Quốc vài năm nay. Quan điểmcoi việc tăng cường tầm quan trọng của bộ chỉ huy hải quân miền đông chỉ vì"mối đe doạ Trung Quốc" là không toàn diện và hạn chế cách nhìn nhận triểnvọng cũng như các tham vọng của Ấn Độ.
Động thái củng cố, gia tăngvị thế miền đông tiến hành song song với chính sách "Hướng Đông" của Ấn Độ.Chính sách này đã đi một con đường dài kể từ khi bắt đầu vào đầu những năm1990. Vị trí địa lý cho phép Ấn Độ tiến xa tới khu vực Đông Nam Á hay thậmchí cả Đông Á và Thái Bình Dương. Cùng với sự phát triển thương mại và traođổi, thì vai trò của Ấn Độ trong các vấn đề an ninh và chiến lược cũng đượcchính phủ nước này chú ý.
Trong tiến trình ấy, thươngmại của Ấn Độ với Đông Nam Á và Đông Á không chỉ phát triển đa dạng mà nhữngràng buộc an ninh của nước này cũng gia tăng không chỉ với các nước nhưSingapore hay Việt Nam, mà còn gồm cả với Nhật Bản, Hàn Quốc,Australia...Hải quân có vai trò quan trọng trong việc hoàn thành mục tiêu mởrộng này. Nếu như trong những năm 1990, hải quân Ấn Độ phần lớn vẫn chỉ giớihạn ở tây Eo biển Malacca thì trong thập niên qua đã chứng kiến sự tiếp cậncủa họ với Thái Bình Dương. Ấn Độ cũng tăng cường các cuộc tập trận đaphương trong những vùng biển của Đông Bắc Á, các tàu thuyền nước thậm chícòn vươn tới Vladivostok.
Trong khi chưa trở thành mộtngười chơi chính ở khu vực, hoặc tầm ảnh hưởng còn mờ nhạt thì chuyện Ấn Độchú tâm nâng tầm bộ chỉ huy miền đông đã thể hiện mong muốn, nỗ lực của nướcnày để trở thành quốc gia đóng vai trò quan trọng với việc định hình mộttrật tự mới nổi ở châu Á.
Câu trả lời sẽ chỉ hé lộtrong tương lai. Nhưng lợi ích từ công cuộc hợp tác hải quân đối với việcduy trì an ninh biển, chống cướp biển, khủng bố sẽ mang lại sự bình yên chovùng biển tấp nập này.
Nhưng người chơi ấy sẽ muốnvai trò thế nào? Tự cho phép mình thành công cụ trong tay kẻ khác để kiềmchế Trung Quốc? Hay thúc đẩy một cấu trúc hợp tác an ninh châu Á, đặt lợiích của châu Á lên trên lợi ích của người ngoài?
Phần lớn tranh luận toàn cầuvề cấu trúc an ninh châu Á thường tập trung vào tranh chấp hàng hải và chínhsách ngăn chặn của Trung Quốc. Những ở đây còn nhiều mối đe doạ khác mà cácnước phải đối mặt từ cướp biển hay khủng bố. Các vùng biển tạo ra một khuvực tiềm năng cho hợp tác giữa các cường quốc hải quân châu Á. Điều này cóthể được sử dụng để bắt đầu tạo lập một trật tự hợp tác mới trong châu lụcnày.