Chưa biết cơ chế hai tỷ giá,hai lãi suất còn tồn tại trong thời gian bao lâu, song rõ ràng nó đang làm méomó thị trường vốn và cả bảng cân đối tài chính ở tầm doanh nghiệp cũng như quốcgia.

Chỉ còn khoảng 10 ngày là đếnhạn chi nhánh Ngân hàng Nhà nước các tỉnh thành phải báo cáo về Ngân hàngNhà nước (NHNN) tiến độ tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỉ đồng của các tổ chứctín dụng. Khả năng tăng đủ vốn của 22 ngân hàng cổ phần là rất thấp và theotính toán sơ bộ của PV, còn khoảng 80% các tổ chức tín dụng phải tăng vốnthêm 1.000 tỉ đồng/đơn vị nữa. Lấy đâu ra mười mấy ngàn tỉ đồng để tăng vốn?

Nguồn cung cho nhu cầu tăng vốnchủ yếu là vay ngân hàng. Điều này đang là một trong những nguyên nhân đẩy lãisuất tiền đồng tăng cao trên cả thị trường một (huy động từ dân cư và tổ chứckinh tế) và thị trường hai (liên ngân hàng). Bên cạnh đó, càng về cuối năm, hiệntượng phòng thủ thanh khoản càng lan rộng trong giới ngân hàng. Đầu tiên là cácngân hàng dồi dào tiền đồng do có nguồn huy động tốt rút bớt lượng vốn cung ứngtrên thị trường liên ngân hàng.

Thí dụ trước đây ngân hàng A cóthể cho vay liên ngân hàng 10 tỉ đồng/ngày, nay đề phòng các doanh nghiệp tăngcường rút tiền chi trả lương, thưởng hoặc vay thêm vốn để thanh toán cuối năm,họ giảm lượng vốn cho vay xuống 8 tỉ đồng/ngày. Trong khi đó các ngân hàng nhỏluôn trong tình trạng “đói” thanh khoản hay thanh khoản “lưng lửng bụng” thìthay vì vay 10 tỉ nay nâng lên 12 tỉ đồng/ngày. Sự chênh lệch này đã khiến cholãi suất tiền đồng không thể hạ được.

Hai tỷ giá, hai lãi suất
Nguồn cung cho nhu cầu tăng vốn chủ yếu là vay ngân hàng (Ảnh minh họa: Hoàng Hà)

Ngoài ra việc NHNN giám sát chặtchẽ và sẽ thanh tra, xử lý một số ngân hàng gửi tiền lãi suất cao ở những tổchức tín dụng khác thông qua công ty con làm cho hoạt động gửi tiền - vay tiềntrong nội khối ngân hàng co hẹp.

Lãi suất tiết kiệm 14%/năm đã trởnên phổ biến, công khai, còn lãi suất tiền gửi thỏa thuận hay cộng thêm các hìnhthức khuyến mại có nơi đã chạm mức 16%/năm. Cơ chế trong - ngoài, vốn chỉ tồntại với tỷ giá, nay lan sang cả lãi suất và doanh nghiệp, người dân, ngân hàngcùng phải chấp nhận nó.

Chưa biết cơ chế hai tỷ giá, hailãi suất còn tồn tại trong thời gian bao lâu, song rõ ràng nó đang làm méo móthị trường vốn và cả bảng cân đối tài chính ở tầm doanh nghiệp cũng như quốc gia.Các ngân hàng phải “giấu giếm” thu các loại phí đi kèm tỷ giá, lãi suất. Doanhnghiệp hạch toán lén lút và một tiền lệ xấu đang hình thành trên sổ sách kế toáncủa họ. Thậm chí những nhà xuất khẩu bán ngoại tệ cho ngân hàng theo giá 19.500đồng/USD bị cho là “có vấn đề”.

Với những công ty nguồn thu ngoạitệ chỉ là 1 -2 triệu USD, việc hạch toán hai tỷ giá đã khó khăn, nhưng khó khănđó chưa thấm vào đâu so với những đơn vị mà mỗi chuyến hàng xuất khẩu mang vềhàng chục triệu USD. Sự chênh lệch tỷ giá trong - ngoài làm lợi nhuận của họ cóthể tăng giảm hàng chục tỉ đồng tùy theo tỷ giá hạch toán. Vì thế sẽ có nhữngcông ty lẽ ra lãi mà hóa lỗ hoặc ngược lại.

Hơn nữa một khi lãi suất và cơchế có chân trong-chân ngoài, tiêu cực dễ nảy sinh trong quá trình giao dịchgiữa các chủ thể. Những nhà đầu tư nước ngoài không thể hạch toán sổ sách vớihai tỷ giá, đành phải ngồi chờ tỷ giá ổn định mới dám chuyển ngoại tệ ra tiềnđồng để giải ngân cho các dự án

Tự do hóa lãi suất và áp dụng cơchế điều hành tỷ giá thả nổi có điều tiết (chứ không phải điều tiết hoàn toàn)có lẽ là một quá trình gây nhiều đớn đau. Tuy nhiên cùng với sự đau đớn ấy lãisuất, tỷ giá sẽ được công khai, minh bạch.

Thị trường tài chính Việt Nam từtrước đến nay vốn đã bị nhận xét là thiếu minh bạch thông tin, nay cơ chế hailãi suất, hai tỷ giá chẳng khác nào ươm thêm mầm cho sự thiếu minh bạch đó pháttriển ở mức độ trầm trọng hơn. Các nhà xuất nhập khẩu nhìn nhau, hỏi tỷ giá giaodịch thực là tỷ giá nào. Ai cũng biết sau khi cộng thêm phí, tỷ giá giao dịchthực ngang bằng với tỷ giá thị trường tự do. Mà tỷ giá thị trường tự do có 5 -7bậc. Vậy tính minh bạch, công khai của tỷ giá, lãi suất nằm ở đâu?

Các doanh nghiệp cho biết họ hyvọng cơ chế tỷ giá, lãi suất hiện tại sẽ nhanh chóng thay đổi vào đầu năm 2011.Nhưng cơ quan quản lý vẫn chưa có động thái nào cho thấy thời điểm đó sẽ diễn ra.Đây mới chính là điều đáng quan tâm lúc này.

Bởi sự không rõ ràng của chínhsách có thể đẩy một số hoạt động kinh tế vào chỗ ngưng trệ. Chẳng hạn doanhnghiệp tiếp tục găm giữ ngoại tệ, ngân hàng hạn chế cho vay. Ảnh hưởng của kênhdẫn vốn ngân hàng eo hẹp đến nền kinh tế có thể chưa nhìn thấy ngay tức thì dođộ trễ của nó, nhưng hậu quả có thể sẽ hiện rõ trong quí một năm sau.

Theo Hải Lý
TBKTSG