Thách thức mới nhất đến từ Nhật Bản. Vào ngày 10/8, Chánh văn phòng Nộicác Yukio Edano tuyên bố, Nhật Bản sẽ triển khai Lượng lượng Phòng vệnếu nước ngoài xâm chiếm quần đảo Senkaku (đây là nơi tranh chấp giữaNhật và Trung Quốc, Trung Quốc gọi là Điếu Ngư). "Nếu nước khác xâmchiếm các đảo, Nhật Bản sẽ viện tới quyền tự phòng thủ và loại bỏ kẻ xâmchiếm bằng bất cứ sự hy sinh nào", Edano nói tại Tokyo, rõ ràng là đềcập tới các hành động hải quân của Trung Quốc trong khu vực.
Tuyên bố của ông Edano đưa ra sau khi Nhật công bố Sách trắng Quốc phòngnăm 2011, cuốn sách được nội các của Thủ tướng Naoto Kan thông qua mộttuần trước đó. Sách trắng mô tả lập trường của Trung Quốc trong tranhchấp hàng hải với các nước láng giềng là "quả quyết".
"Việc hiện đại hoá lực lượng hải quân và không quân của Trung Quốc trongnhững năm gần đây, phạm vi ảnh hưởng có vẻ đã phát triển ra ngoài vùngbiển lân cận... Dự kiến Trung Quốc sẽ cố gắng mở rộng phạm vi hoạt đông,và làm cho các hoạt động hải quân trở nên thường xuyên hơn ở các vùngnước xung quanh Nhật Bản bao gồm biển Hoa Đông và Thái Bình Dương cũngnhư Biển Đông", sách trắng viết. Trung Quốc được mô tả trong cuốn sáchlà "tắc trách" khi liên tục phủ nhận quá trình hiện đại hoá quân sự làmảnh hưởng tới láng giềng trong khu vực.
![]() |
Trước đó, cả Philippines và Việt Nam đềumạnh mẽ phản đối việc các tàu Trung Quốc quấy nhiễm, làm hư hại tàu thămdò, tàu cá của hai nước ở Biển Đông.
Chỉ trích thậm chí còn xuất phát từ cả Singapore, là nước không có tranhchấp lãnh thổ với Trung Quốc và được xem có quan điểm khá thân thiệntrong Đông Nam Á. Đầu năm nay, vị chính khách cấp cao Lý Quang Diệu chobiết, ông thích Mỹ hơn là Trung Quốc chiếm ưu thế ở châu Á, vì ông thấyMỹ "tốt bụng" hơn.
Khắp khu vực, những tuyên bố phản đối Trung Quốc có thể thấy một cáchthường xuyên trong các phát ngôn của quan chức chính phủ cũng như bìnhluận báo chí.
Không một cường quốc nào khác như Mỹ, EU hay thậm chí là Ấn Độ lại làtâm điểm của quá nhiều cáo buộc bất lợi như vậy từ các nước láng giềng.Những tuyên bố như vậy không hề có lợi có các nỗ lực của Trung Quốctrong việc xây dựng và tăng cường các mối quan hệ hữu nghị với lánggiềng theo "chính sách láng giềng tốt".
Chính sách ngoại giao dựa trên bốn nguyên tắc chiến lược: các siêu cườnglớn là đối tác chủ chốt, các nước láng giềng là đối tác chính, các nướcđang phát triển là nền tảng của chính sách ngoại giao Trung Quốc và cácthể chế đa phương là nền tảng quan trọng.
Để thực hiện chiến lược các nước láng giềng là đối tác chính, Bắc Kinhtuân thủ các nguyên tắc "coi các nước láng giềng là đối tác và đối xửvới họ một cách thiện chí" và "xây dựng một vùng lân cận thiện chí, yênbình và thịnh vượng".
Trong tháng 4, tại Diễn đàn châu Á Bác Ngao - một nền tảng của hội nhậpkinh tế khu vực, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào nhấn mạnh, để xây dựngmột châu Á hoà hợp, các nước cần tôn trọng những nền văn minh đa dạng vàthúc đẩy quan hệ láng giềng. "Chúng ta cần chuyển đổi mô hình phát triểnvà thúc đẩy phát triển toàn diện... Chúng ta cần chia sẻ các cơ hội pháttriển và cùng nhau đối phó thách thức... Chúng ta cần tìm kiểm nền tảngchung trong khi giải quyết các bất đồng và tăng cường an ninh chung...Chúng ta cần bảo vệ lợi ích chung và thúc đẩy hợp tác khu vực", ông HồCẩm Đào phát biểu.
Theo "chính sách láng giềng tốt", Bắc Kinh vốn dĩ coi việc cải thiệnquan hệ với ASEAN là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng. Trung Quốc đãxây dựng quan hệ đối tác chiến lược với 10 nước thành viên ASEAN kể từ2003, với một số thành viên trong khối...
Mặc dù Trung Quốc đã nỗ lực để cải thiện quan hệ với láng giềng, đặcbiệt là các nước ở Đông Nam Á, nhưng dường như còn quá nhiều nghi ngạitồn tại. Dường như là Trung Quốc mở rộgn ảnh hưởng thông qua tăng trưởngkinh tế và quân sự thì càng khiến láng giềng càng không thích Trung Quốchơn nữa. Tại sao Trung Quốc lại thất bại trong cuộc "ve vãn" các nước. Ởđây có mọt số lý do: một số bắt nguồn từ nỗi quan ngại của các lánggiềng, số khác lại từ chính Trung Quốc.
Đầu tiên, có những lý do lịch sử. Trong suốt thời kỳ cổ xưa, một số quốcgia châu Á chịu ảnh hưởng của Nho giáo, sẽ phải cống nạp cho các vươngtriều của Trung Quốc bao gồm Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản bây giờ.Những nước Đông Nam Á khác không chịu ảnh hưởng (gồm Philippines,Indonesia, Campuchia và Thái Lan ngày nay) cũng có ghi nhận phải cốngphẩm cho Trung Quốc theo yêu cầu từ các vị vua của họ. Ngoài ra còn cónhững ràng buộc gần cận hơn khi một số quốc gia Đông Nam Á dưới sự đedoạ "xuất khẩu cách mạng" của Trung Quốc vào những năm 1950-1960, rồi sựkiện năm 1979.
Nhưng có lẽ nhân tố lớn nhất đang phá huỷ lòng tin lẫn nhau và làm xóimòn nỗ lực xây dựng các quan hệ đối tác là tranh chấp về chủ quyền lãnhthổ. Trung Quốc có tranh chấp lãnh hải hoặc các đảo ở Biển Đông hay HoaĐông với Việt Nam, Brunei, Malaysia, Philippines và Nhật Bản.
Với nhiều quốc gia Đông và Đông Nam Á, tăng trưởng kinh tế, quân sự vàảnh hưởng chính trị của Trung Quốc ở châu Á nhắc nhở họ về một chế độtriều cống trong lịch sử, về sự tồn tại của các chư hầu quanh Trung Quốcxưa từng thừa nhận ưu thế của Trung Quốc trong khu vực. Lo ngại về sựtrở lại của một chế độ triều cống kiểu mới có lẽ vẫn là một rào cản tâmlý với một số quốc gia để khiến họ có thể tin tưởng vào chính sách lánggiềng tốt của Bắc Kinh.
Quan hệ không tốt giữa Trung Quốc và láng giềng một phần còn là bởinhững điều kiện nội tại của Trung Quốc, về quan niệm giá trị dân chủgiữa các nước trong khu vực. Dù Trung Quốc cam kết về một sự trỗi dậyhoà bình, dù từ lâu đã từ bỏ "xuất khẩu cách mạng", nhưng họ lại chưalàm rõ mục tiêu chiến lược của việc hiện đại hoá quân sự. Với nhiều nướcláng giềng, một siêu cường như vậy mà thiếu tuyên bố rõ ràng là đáng longại.
Lẽ tự nhiên với kích cỡ và dân số Trung Quốc cũng như ảnh hưởng văn hoásâu rộng, sức mạnh kinh tế và quân sự thì những quốc gia châu Á tươngđối nhỏ và yếu hơn sẽ hoài nghi và lo ngại về những gì "con rồng lớn" sẽnắm giữ.
Để giải quyết việc này, ngoài những cam kết bằng lời nói, Trung Quốcphải có những nỗ lực thực tế để thể hiện hiện rằng, họ sẽ đóng góp vàolợi ích và ổn định khu vực khi cần thiết. Ví dụ, trong thời kỳ hậu khủnghoảng tài chính hiện tại, Trung Quốc nên giữ vai trò dẫn dắt để cùng xâydựng một hệ thống tài chính khu vực mạnh mẽ nhằm ổn định thị trường tàichính khu vực.
Trung Quốc nên tôn trọng các cam kết gia tăng hoà bình bằng những biệnpháp cụ thể để góp phần đảm bảo an ninh và hoà bình khu vực. Cũng như ởTrung Quốc, quan điểm dân tộc chủ nghĩa đang gia tăng khắp châu Á, thúcgiục các chính phủ đưa ra các bước đi chính sách mạo hiểm và thách thứcTrung Quốc. Không cần phải nói rằng, căng thẳng chính trị hiện tại củachâu Á, chạy đua vũ trang, tranh chấp lâu dài không phải là chọn lựa lýtưởng cho khu vực. Vì mối quan hệ phức tạp giữa các quốc gia, Trung Quốcvà những nước láng giềng cần dành thêm nhiều thời gian và nỗ lực để xâydựng các quan hệ đối tác đích thực.
Trung Quốc nên hành động như một người chơi có trách nhiệm luôn tuân thủnhững nguyên tắc chung; họ nên có một chiến lược châu Á rõ ràng, thựcthi và thực tế. Theo chính sách này, Bắc Kinh nên hoạt động như mộtcường quốc kinh tế ổn định, nó đòi hỏi Trung Quốc sáng tạo hơn trong cáclĩnh vực tài chính quốc tế, và can đảm hơn trong sáng kiến cải tổ các hệthống tài chính hiện hành.
Trung Quốc cũng nên góp phần đảm bảo an ninh khu vực với khả năng quânsự đang gia tăng của mình. Bắc Kinh nên rõ ràng hơn so với láng giềngtrong việc sử dụng quân sự để duy trì ổn định khu vực thông qua chốnghải tặc, khủng bố và tội phạm quốc tế khác ở Thái Bình Dương. Thay vìphô diễn sức mạnh quân sự trong tranh chấp lãnh thổ, Trung Quốc nênkhuyến khích sự hội nhập chính trị, kinh tế và văn hoá ở Đông cũng nhưĐông Nam Á.
Sau tất cả, Trung Quốc nên định hình lại chiến lược châu Á của mình vớimục tiêu hoạt động như một lực lượng ổn định, trong khi vẫn duy trìchiến lược để giữ sự cân bằng với ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực này.
Trung Quốc phải thể hiện thiện chí và sự chân thành của mình bằng lờinói và hành động. Chỉ bằng cách này, thì sự trỗi dậy hoà bình của họ mớikhông đáng báo động và Trung Quốc mới được các láng giềng châu Á coi làmột người bạn.
Chiến lược châu Á của Trung Quốc nên đi xa hơn việc chỉ là tìm kiếmnhững lợi ích kinh tế chung và bao gồm trách nhiệm góp phần duy trì ổnđịnh tài chính, hàng hải và chính trị.
*Jian Junbo, nhà nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quốc tế, Đại học PhúcĐán, Thượng Hải, Trung Quốc.
Theo Vietnamnet