Mặc dù Ngân hàng Nhà nước vàỦy ban Chứng khoán đã chấp thuận phương án tăng vốn pháp định lên 3.000 tỷ đồngcủa 23 ngân hàng, nhưng đến nay vẫn còn 19 ngân hàng khó lòng cán đích đúng hạn31/12/2010. Khó khăn này là do các ngân hàng, hay do sự duy ý chí của một nghịđịnh?

Ngân hàng Nhà nước vừa mới ban hành Công văn số 9199/NHNN-TGSNH để hối thúc cácngân hàng. Trong đó, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu: “Giám đốc Ngân hàng Nhà nướcchi nhánh tỉnh, thành phố chỉ đạo các tổ chức tín dụng trên địa bàn chưa đảm bảomức vốn pháp định tiếp tục báo cáo vào ngày mùng 5 hàng tháng về tình hình tăngvốn điều lệ”. 

Thực ra, sự kiên quyết của Ngân hàng Nhà nước trong câu chuyện tăng vốn nàykhông phải mới đây mà bắt đầu từ mốc 1.000 tỷ đồng lên 2.000 tỷ đồng (thực hiệnvào 31/12/2009). Mặc dù quy định là vậy nhưng mãi tới bước sang đầu quý 2/2010,các ngân hàng thương mại mới tăng đủ số 2.000 tỷ đồng. 

Và tương tự, từ đầu năm đến nay, Ngân hàng Nhà nước không ít lần nhắc nhở cácngân hàng phải đảm bảo đủ số 3.000 tỷ đồng như nói trên.

Xung quanh vấn đề này, Thống đốc Nguyễn Văn Giàu nói: “Nếu không tăng vốn đượctheo quy định thì phải xử lý thôi, vì đã là pháp luật thì phải chấp hành. Ngânhàng Nhà nước sẽ có nhiều biện pháp xử lý theo pháp luật hiện hành và không“nuông chiều” những trường hợp này. Không phải khi giá cổ phiếu gấp 10 lần thìhăng hái nhảy vào lập ngân hàng, còn khi thị trường chững lại thì lại kêu khó”.

Gần đây, khi bàn đến chuyện ngân hàng tăng vốn pháp định, rất nhiều ý kiến tráichiều. Luồng ý kiến chính thống cho rằng, việc tăng vốn là đúng, bởi chúng gắnvới năng lực tài chính, từ đó góp phần gia tăng năng lực quản trị, công nghệ,đáp ứng chuẩn mực của một ngân hàng hiện đại khi sân chơi ngành này đã gia nhậpvới thế giới. Còn từ phía các ngân hàng trong diện tăng vốn dù không muốn nhưngđành phải chấp nhận theo kiểu “cực chẳng đã”. 

Khi 19/23 ngân hàng khó đúng hạn tăng vốn
Từ đầu năm đến nay, Ngân hàng Nhà nước không ít lần nhắc nhở các ngân hàng phải đúng hạn tăng vốn pháp định

Đặc biệt, không ít ý kiến khác cho rằng cần thiết phải xem xét sửa đổi lại nghịđịnh này ở hai vấn đề: có nhất thiết phải nâng cấp các ngân hàng nông thôn lênđô thị và việc tăng vốn có thực sự đạt được mục đích như mong đợi hay không.

Tổng giám đốc một ngân hàng phân tích: trong nền kinh tế thị trường, ngân hàngcũng là một loại hình doanh nghiệp và họ có những phân khúc riêng của mình.Chẳng hạn, nếu hoạt động ở nông thôn thì cứ để họ ở nông thôn và thực tế nhữngngân hàng sau khi “lên phố” thì địa bàn hoạt động của họ vẫn gắn rất chặt vớinông thôn mà bằng chứng là KienlongBank.

Doanh số cho vay thu nợ củaKienlongBank ở tỉnh này cũng chiếm một tỷ trọng rất lớn. Thế nhưng khi lên thànhthị, các ngân hàng này buộc phải đáp ứng hàng loạt chuẩn mực về quản trị, điềuhành, vốn, công nghệ và bỏ vào đó không biết cơ man vốn liếng nhưng gần như sắmsanh xong rồi để đấy.

Một thực tế, rất nhiều ngân hàng đầu tư cả hệ thống core banking và công nghệ cótrị giá ít thì vài triệu USD, nhiều lên tới chục triệu USD nhưng phát triển giatăng dịch vụ trên nền tảng công nghệ đó thì vẫn chưa thực hiện được.

Câu chuyện tiếp theo là tăng vốn. Trong bối cảnh thị trường tài chính đầy khókhăn như hiện nay, việc tăng vốn quả tình rất gian nan. Và không phải bỗng dưngtrong công văn số 9199, Ngân hàng Nhà nước chỉ rõ: “theo dõi sát việc tăng vốnđiều lệ của các tổ chức tín dụng như việc góp vốn mua cổ phần để tăng vốn điềulệ của các tổ chức tín dụng trên địa bàn có dấu hiệu ảnh hưởng đến việc duy trìan toàn hoạt động; tăng vốn điều lệ của tổ chức tín dụng không phù hợp”. 

Tại sao Ngân hàng Nhà nước lại nhấn mạnh “không phù hợp”? Phải chăng, Ngân hàngNhà nước đã lường trước khả năng một số tổ chức tín dụng sử dụng “tiểu xảo” đểtăng vốn? 

Liên quan đến vấn đề này, một chuyên gia tài chính cho biết một giả định tiểuxảo như sau: ngân hàng A và B trong diện phải tăng vốn nhưng sau họ đều có mộtsố doanh nghiệp, dạng như công ty thành viên. Để tăng vốn, A cho công ty thànhviên B vay vốn (tín dụng), bằng cách nào đó trong hạch toán, công ty thành viêncủa B dùng số vốn này góp vào B dưới dạng mua cổ phần. Ngược lại, B cũng làm nhưvậy với A và kết quả là cả hai đều vui vẻ vì có đủ số vốn cần thiết theo quyđịnh (!?).

Xét toàn cục thì câu chuyện tăng vốn pháp định từ Nghị định 141 đã cho thấy,không phải mọi văn bản ban hành đều có thể dễ dàng đi vào cuộc sống và mỗi khigặp phải trường hợp như vậy, có lẽ nên xem xét và sửa đổi cho phù hợp với thựctế mới là điều đáng nói.

Theo Nguyễn Hoài
VnEconomy