Tuy nhiên, hiện nay mặtbằng lãi suất vẫn đứng ở mức cao. Vì sao như vậy? Bài viết này đưa racâu trả lời dưới góc nhìn của thị trường.
Nghịch lý lãi suất
Từ nhiều tháng qua, lãi suấtcho vay trung dài hạn phổ biến ở mức 13,5-14,5%/năm tại các ngân hàng thươngmại (NHTM) nhà nước và 14-15,5% tại các NHTM cổ phần, lãi suất cho vay lĩnhvực phi sản xuất là 15-17%/năm.
Mặt bằng lãi suất USD cũng khá cao so vớicác nước khác, lãi suất cho vay trung dài hạn là 6-7% tại các NHTM nhà nướcvà 6,5-8% tại các NHTM cổ phần. Trong bối cảnh giá cả đầu vào tăng dần donỗi lo lạm phát và sản xuất tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn, mặt bằnglãi suất quá cao đã và đang gây nhiều khó khăn cho phần lớn các doanh nghiệp.
Một số ý kiến cho rằng, lãisuất cao là do các tổ chức tín dụng (TCTD) gặp khó khăn về nguồn vốn, trongđó quy định TCTD không được vay trên thị trường liên ngân hàng quá 20% vốnhuy động từ dân cư và doanh nghiệp và Thông tư số 13 thắt chặt các quy địnhan toàn.
Tuy nhiên, nếu loại trừ haiyếu tố này thì lãi suất cho vay vẫn không giảm với bằng chứng là nguồn vốnhuy động trong chín tháng đầu năm tăng 21,5% và thị trường được coi là dưcung vì tín dụng chỉ tăng gần 18%.
Vì thế, nguyên nhân sâu xacủa lãi suất cao cần được nhìn nhận từ thực tế yếu kém của thị trường tàichính Việt Nam, trong đó nguyên nhân trực tiếp và nổi bật là do cơ chế lãisuất thỏa thuận đã cho phép các TCTD có quyền điều chỉnh lãi suất cho vaytùy theo tình hình thị trường và nhiều TCTD đã điều chỉnh tăng lãi suất theođịnh kỳ, nhưng người vay phải chấp nhận vô điều kiện, điển hình là đối vớicho vay tiêu dùng với lãi suất trung dài hạn khoảng 17%/năm.
Ngoài ra, giá vàng, tỷ giágiữa đồng Việt Nam với USD tăng cao và lo ngại về chỉ số giá tiêu dùng (CPI)sẽ tăng cao trong những tháng cuối năm cũng là những yếu tố khiến cho việcgiảm lãi suất huy động của các TCTD gặp khó khăn.
Nguyên nhân lãi suất cao cóthể do TCTD phải huy động với lãi suất cao, nhưng chừng nào lãi suất cho vaycòn cao thì vẫn có tình trạng “tạo sự khan hiếm tiền đồng” để trục lợi vàmặt bằng lãi suất vì thế khó giảm nếu không nói là không thể giảm.
Hệ quả là khách hàng chỉ vayvốn ngân hàng trong trường hợp thật sự cần mà không thể tìm được nguồn vốnkhác. Một số doanh nghiệp lớn phải phát hành trái phiếu với lãi suất 14-15%/năm,nhưng nếu tính toán kỹ thì cũng chỉ tương đương với vốn vay từ ngân hàng,thậm chí thuận lợi hơn về nhiều mặt.
Để quay vòng nguồn vốn huyđộng, một số ngân hàng chuyển sang phương thức kinh doanh khác với lợi nhuậncao và an toàn hơn, chủ yếu là trái phiếu chính phủ.
|
Nguyên nhân sâu xa của lãi suất cao cần được nhìn nhận từ thực tế yếu kém của thị trường tài chính Việt Nam |
Hiện nay,phần lớn các ngân hàng trung ương đềuđiều hành thị trường tiền tệ bằng côngcụ lãi suất. Tại Việt Nam, NHNN cũng sửdụng cách tiếp cận này, nhưng việc đanxen giữa các mức lãi suất do NHNN côngbố và lãi suất cho vay do các TCTD tựđịnh đoạt dường như chưa phù hợp ở mộtthị trường còn rất sơ khai lại phải đốimặt với nhiều biến động phức tạp.
Trong đó, các nỗ lực nâng caotrình độ chuyên môn, quản lý và tiến độ điều chỉnh hệ thống văn bản phápluật tạo cơ sở cho thị trường tiền tệ hoạt động lành mạnh lại không theo kịpnhững thay đổi thực tế của thị trường. Đặc biệt là hệ thống luật pháp lạithiếu các quy định đảm bảo cho các thị trường bộ phận hoạt động hiệu quả,dẫn đến sự méo mó thị trường và những nghịch lý về lãi suất.
Lý giải từ góc độ thịtrường
Hiện tại, NHNN quy định vàcông bố các loại lãi suất sau: lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãisuất chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngânhàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ, lãi suất nghiệp vụthị trường mở, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc. Trong đó, lãi suất cơ bảnlà cơ sở để các TCTD xác định trần lãi suất cho vay, kể cả trên thị trườngliên ngân hàng.
Mục tiêu của việc áp dụng lãisuất trần này là duy trì ổn định lãi suất thị trường, đồng thời giúp cácngân hàng nhỏ tiếp cận được nguồn vốn với lãi suất thực tế thấp hơn thịtrường mặc dù những ngân hàng này có độ tín nhiệm không cao, có thể gây rủiro cho hệ thống.
Việc áp dụng trần cũng khiếncho lãi suất liên ngân hàng không phản ánh đúng nhu cầu vốn trên thị trường,nhiều ngân hàng thừa vốn không muốn cho vay trên thị trường này vì vướngtrần lãi suất.
Tuy nhiên, một số ngân hàngthiếu thanh khoản buộc phải vay với lãi suất vượt quá trần quy định. Tạinhiều thời điểm, lãi suất liên ngân hàng cao hơn lãi suất tái cấp vốn doNHNN công bố khiến cho những lãi suất này mất đi vai trò của mình là duy trìlãi suất thị trường ổn định trong phạm vi một hành lang lãi suất. Nguyênnhân là do lượng vốn mà NHNN sẵn sàng cung ứng qua kênh này còn hạn chế, thủtục vay vốn còn khắt khe và phức tạp, các TCTD khó tiếp cận kênh cung ứngvốn này.
Ngoài ra, phải kể đến tâm lýe ngại của các TCTD vì họ cho rằng, khi phải viện đến nguồn vốn của NHNNđồng nghĩa với TCTD đó có vấn đề về thanh khoản. Ngay trên thị trường repocũng có những bất cập tương tự, nhiều ngân hàng áp dụng lãi suất repo caohơn lãi suất liên ngân hàng cùng kỳ hạn, như vậy là trái với thông lệ quốctế do giao dịch repo về thực chất là giao dịch có bảo đảm và lãi suất phảithấp hơn so với giao dịch không có bảo đảm.
Cho tới nay, Việt Nam chưaxây dựng được một lãi suất chuẩn tương tự như lãi suất thị trường liên ngânhàng ở nhiều quốc gia trên thế giới (chẳng hạn Vnibor đóng vai trò là lãisuất mục tiêu để định hướng thị trường).
Việc tham khảo lãi suấtVnibor, hiện do Reuteurs xây dựng được cung cấp trên trang web Bloomberg,còn nhiều hạn chế do lãi suất này chưa phản ánh chính xác lãi suất thịtrường vì nó được xây dựng dựa trên số liệu chào mua và chào bán do các ngânhàng cung cấp chứ không dựa trên lãi suất giao dịch thực tế. Như vậy, nhữngbiến động của các loại lãi suất này chưa thật sự là tín hiệu phản ánh đúngdiễn biến của thị trường tiền tệ Việt Nam.
Việc thu thập, xử lý và côngbố các thông tin về thị trường, nhất là thị trường tiền tệ còn rất thủ công,chưa dựa trên một phần mềm xử lý cơ sở dữ liệu lịch sử giúp dễ dàng tríchxuất đồ thị theo chuỗi thời gian.
Các TCTD vẫn chưa có được hệ thống quản lývốn hoàn chỉnh tại hội sở chính để làm cơ sở tính toán cho các giao dịchtrên thị trường, gây khó khăn cho việc đánh giá phân tích tình hình thịtrường, ảnh hưởng xấu đến chất lượng hoạt động của các thành viên thị trườngvà hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, khó ứng phó kịp thời khicó dấu hiệu mất ổn định của thị trường tiền tệ.
Những phân tích ở trên chothấy, rất khó hạ mặt bằng lãi suất trong bối cảnh thị trường tài chính ViệtNam còn nhiều bất cập, các thị trường bộ phận và thành viên thị trường cònbị phân khúc, phát triển manh mún. Vẫn còn tình trạng các TCTD ưu tiên chovay, hoặc gửi tiền trong nhóm với nhau.
Vì thế, giải pháp đưa ra cầntập trung vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường tài chính ViệtNam, trước mắt là sự phối hợp hiệu quả giữa NHNN và Bộ Tài chính trong việcquản lý, giám sát hoạt động kinh doanh trái phiếu chính phủ và trái phiếudoanh nghiệp.
Theo Lam Phong
TBKTSG