Theo một số chuyên gia phân tích kinh tế và lãnh đạo nhiều ngân hàng thươngmại, triển vọng giảm lãi suất trong thời gian tới là khá xa vời.

Theo TS. Trần Du Lịch, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiềntệ quốc gia, mục tiêu kiểm soát lạm phát thông qua chỉ số giá tiêu dùng(CPI) khoảng 7% trong năm nay có thể đạt được, song mặt bằng lãi suất hiệnvẫn khá cao. So với mức lạm phát kỳ vọng cho năm nay là 7%, lãi suất tiềngửi bình quân ngân hàng đang áp dụng hiện là 11%/năm, nếu trừ lạm phát, lãisuất đã thực dương là 4%...

Nhưng việc giảm chi phí đầu vào trong lúc nàylà khó thực hiện, bởi áp lực các quy định về chính sách mới đang dần “đè”nặng lên nhà băng, đặc biệt là với Thông tư 13/2010/TT- NHNN, nếu khôngđiều chỉnh một số quy định như Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) kiến nghị.Do đó, cạnh tranh huy động vốn dự báo còn gay gắt hơn trong thời gian tới.Lãi suất tiết kiệm tiền đồng được dự báo khó giảm, ngược lại, khả năng còntăng lên trước các áp lực mới.

Và thực tế, trong những ngày của tuần gần cuối tháng 9/2010, hầu hết cácnhà băng đẩy mạnh khuyến mãi, sau khi đã để mức lãi suất đồng thuận cao nhấtlên tới 11,2%/năm đối với tiền gửi VND được áp dụng cho hầu hết các kỳ hạnhiện nay. Thậm chí, một số nơi còn đưa ra những thỏa thuận “ngầm” với kháchhàng. Lãi suất thực từ đó có thể đạt 12- 12,5%/năm, cao hơn so với mức đồngthuận.

Các ngân hàng nhỏ dù đã cạnh tranh, nhưng khó có thể thu hút được nguồnvốn từ thị trường một (huy động từ dân cư và tổ chức kinh tế) để đáp ứng vốngiá rẻ cho doanh nghiệp.

Khó gỡ nút thắt lãi suất

Trong khi đó, tổng giám đốc một ngân hàng cổ phần quy mô tại TPHCM chobiết, dù vốn khả dụng đang dư thừa, song không thể giảm lãi suất đầu vào,bởi nếu giảm lãi suất, tiền gửi sẽ chạy sang ngân hàng khác có lãi suất caohơn và việc giảm tiếp lãi suất cho vay là rất khó. Những ngân hàng lớn thừavốn lúc này lại không thể kinh doanh qua thị trường liên ngân hàng như trước,do quy định khống chế tỷ lệ các ngân hàng không được sử dụng quá 20% vốntrên thị trường này làm vốn tín dụng.

Khó tăng trưởng được dư nợ tín dụng, nhiều ngân hàng thừa vốn tìm đếntrái phiếu chính phủ. Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sáttài chính quốc gia, khi mua trái phiếu chính phủ, mức thặng dư dù thấp,nhưng đảm bảo an toàn. Vì thế, các nhà băng sẽ chọn phương án mua trái phiếuchính phủ, thay vì bằng mọi cách đẩy mạnh vốn cho vay ra nền kinh tế.

Do đó, theo đánh giá của ông Nghĩa, triển vọng giảm lãi suất còn xa vời.Đồng thời, theo ông Nghĩa, nếu không sớm bỏ các rào cản hành chính cũng nhưxem xét để giảm lãi suất trái phiếu chính phủ, sẽ khó gỡ “nút thắt” về lãisuất, dẫn đến vốn ngân hàng cho vay ra kinh tế bị hạn chế.

Thực tế, trước áp lực lãi vay thỏa thuận còn cao như hiện nay, không ítdoanh nghiệp đã và đang chọn giải pháp phát hành trái phiếu huy động vốn,với lãi suất tới 14 - 16%/năm. Chẳng hạn như Tổng công ty Sông Đà vừa pháthành 1.500 tỷ đồng trái phiếu, lãi suất 15%/năm trong năm đầu tiên và thảnổi trong các năm tiếp theo…

Tuy nhiên, hệ quả khi các doanh nghiệp ồ ạt phát hành trái phiếu đượcTSKH Võ Đại Lược (Trung tâm kinh tế châu Á Thái Bình Dương) dự báo là, nợxấu gia tăng, vì doanh nghiệp phải vay với lãi suất cao sẽ rất khó kinhdoanh.

Theo đánh giá của ông Lược, so với các trung tâm kinh tế thế giới hiệnnay, lãi suất (cả huy động và cho vay) mà các ngân hàng Việt Nam đang ápdụng là quá cao. Thêm vào đó, các quy định về chính sách tiền tệ mới đưa rasẽ khiến mặt bằng lãi suất khó có thể giảm như mong đợi. Đây chính là “nútthắt” không chỉ đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng, mà còn là “nútthắt” cho đà tăng trưởng của cả nền kinh tế.

Theo Vân Linh
Báo Đầu tư