Chị vợ nói nấunướng đã xong rồi, chừng nào muốn cúng thì kêu người trong bếp dọn ra. Anhngóng ra con đường vắng ngắt chạy vắt ngang nhà, kêu chờ thêm chút nữa, “cònsớm...”. Giọng anh lẩy bẩy, vì cái vạt nắng sáng xiên vào hàng ba đã sắpđứng dậy thẳng lưng đi ra khỏi đó rồi.

Khói nắng
Minh họa: Nguyễn Ngọc Thuần

Nghĩa là đãsắp trưa. Chắc con Ba Hạnh đã chèo xuồng qua khỏi doi Chà Là, thằng TưThạnh cố vét thêm cuốc xe ôm nữa, chắc là sắp ghé qua. Năm Vui biết đâuđón xe đò ở đầu lộ thứ Mười, hoặc đã lên xe rồi nhưng xe chết máy dọcđường. Mọi người sẽ về đủ mặt, anh tin vậy.

Hôm nay là giỗbà già. Năm nào vợ anh cũng lẳng lặng chuẩn bị nấu sáu mâm. Sáng qua chịbỗng hỏi năm nay mình có tính làm gọn không. Anh nạt, “nấu vậy ai ăn ainhịn, bà con cười tui thúi đầu...”, rồi đùng đùng đá sập giàn củi, đi te tera mé đìa, ạch đụi quăng chài. Lưới chài cứ vướng lại đâu đó, anh nhảy àoxuống, người đầm đìa nước. Vợ tần ngần ngó theo chồng, chụm thêm củi vào nồibánh tét, nghe cay sè mắt mũi, dù gió đã mang khói ngược phía khác. Chị nhớgiỗ năm ngoái dư đến mấy mâm, dọn dẹp xong cả nhà buồn rũ như con chù ụ.

Giỗ đó anhkhông uống giọt rượu nào, lắc võng suốt buổi chiều như đã chìm lút không dậyđược nữa. Cả nhà vẫn nhớ lần say cuối của anh là vào mùng ba tháng sáu nămkia. Họ nhớ cả quang cảnh hôm đó: trời rất thấp, gió cồn cào và trong nhànghẽn đặc không khí bệnh tật. Mùi lá xông giải cảm, mùi dầu cù là, mùi chiếugối ẩm ướt... ám lên gương mặt của những người lượn lờ quanh cái giường tối,nơi tía anh nằm thoi thóp. Cuối chiều anh đi nhậu về, hơi thở anh góp vàocái không khí vốn không mấy dễ chịu thêm cái mùi hèm lộn mửa. Khi loạngchoạng ngang qua chỗ ông già, anh lè nhè vỗ vai xương xẩu của tía cười khơkhớ, chiến hữu bữa nay ngồi uống vài ly đi chớ, chân anh đá trúng bô nướctiểu làm nó văng tung tóe. Ông già nhợt nhạt, đấm ngực nói “thằng trời đánhnày không phải con tao”. Nói xong ông già cấm khẩu, ba bữa sau ông qua đời.

Mày không phảicon tao. Câu nói hụt hơi chống gậy đi từ miệng của một ông già đau sátchiếu, lại mạnh mẽ đến mức xuyên qua vách, qua tai, va đập vào não của dânXẻo Quao. Người ta nói hèn chi cặp chân mày rậm rịt của anh không giống ôngbà già xíu nào. Họ nhận ra anh cao ráo hơn mấy đứa em. Họ nhắc nhau đận đóông già thằng Sáng đi buôn đường mía mỗi chuyến chừng năm bảy bữa mới đáoqua thăm nhà. Họ nhớ anh là đứa bị ông già đánh đòn nhiều nhất, có lần ôngcòn trói anh vô gốc ổi bỏ đói cả buổi. Má anh hay bị chồng nặng nhẹ, “bà độicon bà lên đầu nên nó sanh hư...”, cái chữ “con bà” có ẩn ý, biết đâu. Mọingười gật gù kết luận, nguyên cả gánh chỉ có thằng đó là phá của, ham chơi,suốt ngày say xỉn.

“Tía giận thìổng nói vậy thôi”, anh nói với khắp láng giềng, với mấy đứa em, lượm móttừng cái gật đầu. Đứa con ngỗ ngược thường bị cha mẹ chửi té tát là nó khônggiống họ, không phải con họ, con họ thì đâu có tệ hệ nông nỗi vậy... kiểunói đó thiên hạ thiếu chi.

Nhưng thiên hạkhông nói câu đó như những lời trăng trối cuối cùng, họ chỉ chửi với theotrong lúc cầm roi rượt thằng ngỗ ngược chạy ngời ngời ngoài ruộng, hoặc lúcnó đang nằm sấp chờ đánh đòn trên bộ ngựa, hoặc nó đang trốn trên tuốt đọtcây dừa. Tía anh thì nói như thể vét hết bao nhiêu tàn hơi để nhắn một thôngđiệp tối quan trọng. Và ông già dùng cái chết của mình để làm một cái dấuchấm. Chính xác, là dấu chấm hết.

Bà Út nói tộinghiệp, thằng Hai bị cắt chảy máu. Bà già mù này dường như là người họ hàngbên nội duy nhất chẳng nghi ngờ thân phận anh. Chắc vì bà không nhìn thấynhững dấu hiệu nào đó trên người anh, được cho là lạc loài. Mỗi lần anh ghéchơi, bà lại bâng quơ, có thứ lưỡi gì bén bằng lưỡi người đâu con. Tía congiận thì nói vậy thôi - anh trả lời trong lúc ngó vào cái kiếng soi trên tủáo, tự hỏi sao vành tai anh hơi méo và cẳng chân mảnh khảnh. Sao tóc mìnhlại hơi ngả nâu, cả dòng họ có ai vậy đâu?

Câu hỏi đó chỉcó hai người có thể trả lời, nhưng đã về đất cả rồi. Mỗi tối anh vẫn thườngnhìn những thân nhang cháy, mong nó uốn cong thành một tín hiệu gì đó, cóthể chứng minh được thân phận của mình. Nhưng tàn nhang thản nhiên rơi vãi,rời rạc và tẻ nhạt.

Đám em anh chắccũng không nhận được cuộc báo mộng nào, tụi nó dần lợt lạt. Nhiều bữa anhthấy Tư Thạnh chở khách ngang nhà và không hề phóng mắt qua khoảng sân mọcđầy lúa rày. Lần gần nhất là trước giỗ đầu của ông già hai ngày, Tư Thạnhghé nhà, thắp nhang khấn vái rầm rì rồi che cái nón lá lên lư hương tía đemđi, bảo “Tía tôi thì tôi thờ...”. Chiếc xe cà tàng vọt đi vẽ nên một đườngbay tán loạn của tàn nhang.

Bữa đó anh đangbận bộ áo túi xám được may theo kiểu tía thường mặc hồi còn sống, và râu anhcũng lởm chởm như râu ông già. Chỉ cần cây gậy nữa thôi, anh sẽ thành bảnsao của người cha trong ảnh, nhưng thằng Tư Thạnh không đếm xỉa. Chỉ cần nókêu “ui là trời anh Hai y hệt tía...”, anh cho nó mấy chỉ vàng luôn cũngđáng. Nhưng rốt cuộc chỉ bọn trẻ nhà anh là hay được tiền mua kẹo, mỗi khithảng thốt ba giống ông nội quá chừng.

Giờ coi kiếngcho kỹ, anh thấy mặt mình chỉ thiếu vài nếp nhăn, thứ đó muốn có phải cần cóthời gian. Râu tóc thì cũng đã bạc rồi, chỉ sau một lần giỗ má, nhìn nhàtrống hoác, thưa vắng họ hàng, mấy đứa em kêu mắc công chuyện không tới...Chị vợ xót quá, ấm ức xui chồng đâu đi thử cái di truyền gì đó cho người tasáng mắt ra. Anh đang châm rượu cúng, quay mặt vô vách nạt, thôi đừng có tàolao, tía giận thì nói vậy... Anh sợ chị vợ bắt gặp cái ý nghĩ lỡ như lời ônggià là sự thật?!

- Giỗ năm saucũng nấu đủ sáu mâm cho tui - anh cố gằn giọng, tiếng vang ra ngoài thinhkhông.

Ngoài đườngtoàn khói nắng là khói nắng, họa nên một thứ ảo ảnh gờn gợn. Thế giới sao màvắng tanh.

Truyện ngắncủa Nguyễn Ngọc Tư
TTO