Mộtchuyên gia nhận định, nếu thực hiện nghiêm Nghị định 141/CP thì qua 2010, chỉcòn 20 ngân hàng thương mại cổ phần được phép tồn tại với mức vốn điều lệ trên3.000 tỷ đồng. Đó là cơ hội tốt để gạt bỏ những "cơ thể ốm yếu" nhưng liệu Nhànước có “làm nghiêm”?

Tại Hội thảo “Tái cấu trúc khuvực tài chính, ngân hàng sau khủng hoảng - Xu  thế thế giới và những vấn đề đặtra với Việt Nam” do Viện Kinh tế và Chính trị thế giới phối hợp với Thời báoNgân hàng tổ chức tuần trước, các chuyên gia đã gióng lên những cảnh báo về nguycơ gây mất an toàn hệ thống của những ngân hàng nhỏ, tiềm lực yếu nhưng khôngchịu sáp nhập hoặc mua bán lại (M&A).

Chỉ thích “riêng một góc trời”

Tiến sĩ Vũ Đình Ánh, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Thị trường giá cả - Bộ Tàichính, cho biết, tính đến tháng 3/2010, trong số 39 ngân hàng thương mại cổ phần,nếu xét theo quy mô vốn điều lệ thì có 21/39 ngân hàng thương mại cổ phần dưới2.000 tỷ đồng; 30/39 dưới 3.000 tỷ đồng và chỉ 9/39 có vốn trên 3.000 tỷ đồng. 

Đứng đầu “câu lạc bộ trên 3.000 tỷ đồng” là Vietcombank với 12.100 tỷ đồng (650triệu USD) nhưng có thể bị VietinBank “qua mặt” vì vốn điều lệ của ngân hàng nàyđang là 11.252 tỷ đồng và dự kiến hết 2010, VietinBank sẽ phát hành thêm 3 đợt,nâng vốn điều lệ lên mức 18.731 tỷ đến 19.833 tỷ đồng. Tiếp theo là Eximbank(8.800 tỷ đồng), ACB (7.814 tỷ đồng), Sacombank (5.115,8 tỷ đồng), LienVietBank(3.300 tỷ đồng)...

Tuy nhiên, nếu theo quy định tại Nghị định 59/2009/NĐ-CP ngày 16/7/2009 thì cảVietcombank lẫn VietinBank không được xếp vào “nhóm cổ phần” vì nhà nước vẫn nắmgiữ trên 50% vốn điều lệ và số ngân hàng có mức vốn trên 3.000 tỷ đồng rất ít.“Rõ ràng, quy mô các ngân hàng thương mại cổ phần quá nhỏ bé trong khi số lượnglại tương đối nhiều so với quy mô nền kinh tế chỉ khoảng 100 tỷ USD của năm2009”, ông Ánh nhận xét.

Không “nuông chiều” các ngân hàng yếu kém

Hết năm 2008, mới chỉ có 28 đơn vị vượt “ba rie” và có tới gần 10 đơn vị mới đạt mức vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng vào cuối 2009, muộn hơn một năm so với quy định tại Nghị định 141 (Ảnh: Quang Liên)

Trở lại với Nghị định 141/2006/NĐ-CP, ngay từ2006, nhà nước đã sớm nhìn thấy tình trạng“nhiều nhưng yếu” trong ngành ngân hàng nên đãđưa ra rào cản vốn điều lệ nhằm mục tiêu nângcao tiềm lực tài chính cho số ngân hàng quy mônhỏ. 

Theo đó, hết năm 2008, các ngân hàng thương mạicổ phần phải đạt mức vốn điều lệ tương đương mứcvốn pháp định được quy định tại nghị định này là1.000 tỷ đồng và hết 2010 là 3.000 tỷ đồng. Tuynhiên, hết năm 2008, mới chỉ có 28 đơn vị vượt“ba rie” và có tới gần 10 đơn vị mới đạt mức vốnđiều lệ 1.000 tỷ đồng vào cuối 2009, muộn hơnmột năm so với quy định tại Nghị định 141. 

Ngân hàng Nhà nước nói gì?

Đáng lẽ, về nguyên tắc, nếu không đảm bảo mứcvốn này thì phải giải thể hoặc thực hiện cácthương vụ M&A nhưng xem ra, điều này là chưa thểvà cội nguồn của vấn đề lại xuất phát từ cả haiphía: ngân hàng và cơ quan quản lý.

Trước hết, quan điểm “riêng một góc trời” vẫncòn ngự trị rất lớn trong cách hành xử của nhiềungân hàng. Điều này được nhận thấy rất rõ, hiệncó gần 40 ngân hàng thương mại cổ phần nhưng yếutố “ngoại” mới chỉ có ở một số ngân hàng nhưTechcombank, ABBank, SeABank..., trong khi chưahề có một vụ M&A nào trong ngành ngân hàng trongnhiều năm gần đây. 

Thứ hai là vấn đề liên quan đến trách nhiệm củacơ quan quản lý. Mặc dù gần 10 ngân hàng bị chậmtrễ tăng vốn điều lệ theo lộ trình gần một nămnhư nói trên nhưng cơ quan quản lý vẫn nương tayvà liệu điều này có tiếp tục đối với mức vốn3.000 tỷ đồng hay không thì vẫn là dấu hỏi.

Đem vấn đề này trao đổi với Ngân hàng Nhà nước,Thống đốc Nguyễn Văn Giàu thẳng thắn: “Nếu khôngtăng được vốn theo quy định thì phải xử lý thôi,vì đã là pháp luật thì phải chấp hành. Ngân hàngNhà nước sẽ có nhiều biện pháp xử lý theo phápluật hiện hành và không nuông chiều những trườnghợp này. Không phải khi giá cổ phiếu gấp 10 lầnthì hăng hái nhảy vào lập ngân hàng, còn khi thịtrường chững lại thì lại kêu khó”.

Một điểm đáng lưu ý khác, theo Nghị định59/2009/NĐ-CP ngày 16/7/2009 về “tổ chức và hoạtđộng của ngân hàng thương mại” thì tỷ lệ góp vốncủa thể nhân và pháp nhân lần lượt là 10% và 20%vốn điều lệ. Từ 2010, vốn điều lệ tối thiểu mỗingân hàng được nâng lên 3.000 tỷ đồng và có ýkiến rằng, nếu chất lượng hoạt động của một ngânhàng nào kém cỏi thì mức độ ảnh hưởng đến hệthống sẽ rất khó lường. 

Đã có một tình huống được giả định rằng, một“đại gia” nào đó gửi vốn cho các thể nhân đứngtên ở vài ba ngân hàng. Sau đó, “đại gia” nàydùng các cổ đông “hờ” gây áp lực cho hội đồngquản trị và ban điều hành phải giải ngân cho cácdự án của mình. Trong điều kiện thị trường ổnđịnh thì có thể “chưa làm sao” nhưng chẳng may“đại gia” mất thanh khoản thì thử hỏi hậu họa sẽnhư thế nào?

Cũng theo Thống đốc thì mức vốn góp theo Nghịđịnh 59 sẽ giảm còn một nửa khi Luật Ngân hàngnhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng được thựcthi. Cùng đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ bắt buộc cổđông ngân hàng phải chứng minh nguồn gốc vốn góp,thay vì chỉ chung chung “không vi phạm pháp luật”như lâu nay. Những cổ đông có tỷ lệ vốn gópnhiều hơn mức luật cho phép thì phải rút bớthoặc sang nhượng lại.

Như vậy, mức vốn điều lệ tối thiểu 3.000 tỷ đồng,sự minh bạch và giảm tỷ lệ đối với nguồn vốn gópđược coi là cơ hội tốt để nhà nước sàng lọc,loại bỏ những cơ thể ốm yếu trong hệ thống ngânhàng. Giả sử, hết năm 2010, có ngân hàng khôngđủ khả năng tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ đồngthì cơ quan quản lý có thêm một lần “nới tay”như năm ngoái?

Theo Nguyễn Hoài
Không “nuông chiều” các ngân hàng yếu kém