Tình trạng vượt trần lãi suấthuy động lại lan sang tiền gửi USD, theo những thông tin phản ánh gần đây. Nhưngnhững ngân hàng “lách” trần sẽ giải thích thế nào khi chốt sổ?
Đến thời điểm này, tình trạng lãi suất huy động VND vượt trần quy định 14%/nămđã lần lượt được các cấp, cơ quan chức năng thừa nhận. Một lần nữa, trong tàiliệu gửi các đại biểu Quốc hội phục vụ cho kỳ họp khai mạc sáng nay (21/7), vấnđề này cũng được đề cập tới.
Không phải lúc này, mà câu chuyện lãi suất vượt trần đã kéo dài trong thời gianqua, từ tháng 3/2011 - khi cơ chế áp trần chính thức được luật hóa.
Những ngày gần đây, nhiều kênh thông tin chính thống lại tiếp tục phản ánh tìnhtrạng trên lan sang tiền gửi USD đối với dân cư, vượt mức trần 2%/năm quy định.
Trao đổi bên lề về hoạt động ngân hàng thời gian qua, tổng giám đốc một ngânhàng lớn tại Hà Nội nói vui rằng: có lẽ để kinh doanh được phải biết “lách” mộtchút.
Ngân hàng có nhiều cách khác nhau để hợp thức việc “lách” trần. Nhưng họ sẽ giảithích thế nào cho hợp lý với cổ đông về kết quả kinh doanh, ít nhất là trong 6tháng đầu năm nay, hay chốt lại năm 2011.
![]() |
Những ngày gần đây, nhiều kênh thông tin chính thống lại tiếp tục phản ánh tình trạng trên lan sang tiền gửi USD đối với dân cư, vượt mức trần 2%/năm quy định (Ảnh minh họa: cafeland.vn) |
Với chính sách tiền tệ thắt chặt, hoạt động kinh doanh khó khăn, dự kiến năm naysẽ có nhiều nhà băng không đạt chỉ tiêu lợi nhuận, hoặc buộc phải điều chỉnh lạichỉ tiêu lợi nhuận. Thế nhưng, một câu hỏi trực quan là: họ nói gì khi có chênhlệch lãi suất rất lớn?
Trên biểu niêm yết, lãi suất huy động VND chỉ tối đa 14%/năm, trong khi lãi suấtcho vay có từ 20%, thậm chí 22% - 25%/năm; lãi suất huy động USD tối đa chỉ2%/năm nhưng lãi suất cho vay lên tới 6% - 8%/năm. Rõ ràng, các ngân hàng đãhưởng chênh lệch lãi suất rất lớn, cao nhất tới cả chục phần trăm như vậy, saolợi nhuận lại khó?
Với chênh lệch đó, nhiều năm trước các ngân hàng cũng không “mơ” được, vậy saonăm 2011 lợi nhuận lại khó, hay kinh doanh khó? Năm 2005, chênh lệch giữa lãisuất cho vay với lãi suất huy động bình quân chỉ là 3,42%/năm, năm 2006 chênhlệch bình quân là 4,63%/năm, 2007 là 4,45%/năm, 2008 là 4,62%/năm. Năm gần nhất2010 cũng chỉ được bình quân khoảng 2,5%/năm.
Rõ ràng, việc giải trình chênh lệch giữa lãi suất cho vay với lãi suất huy độngtừ cỡ 6% - 7%/năm, thậm chí lên đến cả chục phần trăm như vậy là một thực tế cácngân hàng phải đối mặt. Bởi nếu anh nói do chi phí đầu vào cao, lãi biên thực tếkhông được như vậy thì có phải do lãi suất huy động vượt trần? Còn nếu thừa nhậnđược chênh lệch đến như vậy, anh phải đối mặt thế nào với vấn đề đạo đức kinhdoanh khi thu chênh lệch quá cao trong bối cảnh nhiều doanh nghiệp, người dângặp khó khăn.
Câu chuyện này không mới. Đặt ra khoảng chênh lệch lãi suất lớn như vậy là trênsổ sách, nhưng “ngô nghê” với thực tế. Nhưng qua đó cho thấy, nhìn nhận và thừanhận lãi suất huy động vượt trần không phải quá khó, không hẳn chỉ có ở việcthanh tra với các bằng chứng của cơ quan chuyên trách. Cái khó là việc hạn chếhoặc khắc phục nó.
Thế nên, một lần nữa câu hỏi mà cách đây khoảng một tháng đã thu hút sự quan tâmcủa công chúng vẫn cần đặt ra: liệu cơ chế trần lãi suất có sự điều chỉnh nàokhông, hay bàn chân phải gầy đi cho vừa giày, hay vẫn chấp nhận tính pháp lý củachính sách không được nguyên vẹn?
Theo Minh Đức
VnEconomy