Nuôi con ai cũng muốn con ăn uống ngon lành.Khi thấy con biếng ăn thì sốt ruột, tìm mọi cách để con ăn nhiều hơn, trong đómen tiêu hoá được dùng phổ biến.
Nhưng trước khi sử dụng, các bà mẹ cần hiểu rõnguồn gốc và cơ chế tác dụng của chúng. Cần biết phân biệt loại nào làthực sự hay còn gọi là men enzym, loại nào chỉ là những chế phẩm vi sinh, hoặclà các probiotic.
Men tiêu hoá enzyme là gì?
Đây là các loại men do chính các tuyến trongcơ thể tiết ra, có tác dụng để tiêu hoá và hấp thu thức ăn, ví dụ tuyến nước bọtbài tiết men Ptyalin (còn gọi anpha – amylase) có tác dụng phân giải tinh bột đãnấu chín thành đường maltoza. Dạ dày bài tiết ra axit clohydric (HCl) và các menpepsin, lipase.
Men pepsin của dạ dày chỉ có tác dụng tiêu hoá được từ 10 – 20%chất đạm thức ăn, còn men lipase có tác dụng rất yếu, chỉ tiêu hoá được dạngchất béo đã nhũ tương hoá (chất béo của sữa, trứng). Tại ruột non, thức ăn đượcnhào trộn với dịch tuỵ, mật và dịch ruột.
![]() |
Có thể sử dụng các thức ăn chứa men tiêu hoá tự nhiên như sữa chua... |
Sự tiêu hoá sẽ hoàn tất trong lòngruột và các tế bào niêm mạc ruột. Sau đó các sản phẩm sẽ được hấp thu tại ruộtcùng với vitamin, chất khoáng và nước. Gan bài tiết ra mật, đóng vai trò quantrọng trong hoà tan các chất mỡ, tạo điều kiện cho các men lipase tiêu hoá mỡhoạt động.
Quan trọng nhất là các men được bài tiết từtuỵ tạng. Dịch tuỵ chứa đầy đủ các men tiêu hoá chất bột, chất đạm, chất béo.Men tiêu hoá tinh bột của tuỵ cũng là anpha – amylase, có cấu trúc giống menptyalin của nước bọt nhưng tác dụng mạnh hơn nhiều lần. Nó tiêu hoá được cả tinhbột chín và tinh bột còn sống. Men tiêu hoá chất đạm của tuỵ bao gồm: trypsin,chymotrypsin, arboxypolypeptidase. Các men lipase của tụy giúp tiêu hoá mỡ (saukhi mỡ nhũ tương hoá nhờ muối mật). Các tế bào biểu mô của niêm mạc ruột noncũng chứa một số men tiêu hoá để phân giải chất dinh dưỡng (chất bột, chất đạm,chất béo) ở giai đoạn cuối cùng thành những phân tử đơn giản để hấp thu quathành ruột vào máu.
Chúng ta có thể hiểu rằng chỉ khi nào cáctuyến tiêu hoá bị tổn thương hoặc giảm bài tiết (tiêu chảy kéo dài, suy dinhdưỡng nặng, u xơ nang tuyến tuỵ, viêm teo ruột kéo dài, cắt ngắn ruột sauphẫu thuật...), cơ thể sẽ thiếu các men tiêu hoá thì mới cần dùng men tiêuhoá. Trong những trường hợp này, bên cạnh cung cấp đầy đủ các chất dinhdưỡng qua khẩu phần ăn, trẻ cần cung cấp thêm một số men tiêu hoá như pepsin(men dạ dày), pancreatin (men tuỵ) hoặc phối hợp nhiều men. Trừ trường hợpbị tổn thương tuyến tiêu hoá bẩm sinh, còn thì chỉ nên dùng men tiêu hoátừng đợt 1 – 2 tuần, không nên dùng kéo dài; nếu không sẽ làm các tuyến tiêuhoá bị ức chế, giảm bài tiết và dẫn đến teo làm cho đứa trẻ suốt đời phảiphụ thuộc vào men tiêu hoá.
Còn các loại như antibio, probio, bioacimin,lactomin… mà người dân quen gọi men tiêu hóa và tự mua về cho trẻ dùng thực rachỉ là những chế phẩm vi sinh được làm từ vi khuẩn hoặc nấm. Khi bổ sung các menvi sinh này vào cơ thể, các vi khuẩn có lợi sẽ cạnh tranh không cho các vi khuẩncó hại bám vào niêm mạc ruột để gây bệnh cho trẻ, các vi khuẩn này còn giúp bìnhthường hoá tính thấm của niêm mạc ruột, ngăn ngừa táo bón do tăng cường hấp thunước vào trong lòng ruột, giúp làm mềm phân, các vi khuẩn có lợi trong men visinh còn giúp các tế bào niêm mạc ruột tăng sản xuất các loại kháng thể, vì vậycó tác dụng rất tốt trong điều trị tiêu chảy do rotavirut, vi khuẩn… Khác vớimen enzyme, loại chế phẩm vi sinh này có thể dùng được dài ngày hơn: từ 2 – 3tuần, thậm chí 1 – 2 tháng hoặc lúc nào trẻ tiêu chảy, táo bón, phân sống là cóthể dùng được.
|
Theo ThS.BS Lê Thị Hải
SGTT