
Thời gian thấm thoắt trôi đánh vèo một cái đã sáu năm.
Gặp nhau ở huyện tôi nói với người bạn làm giáo viên là sẽ vào trong
xã, tôi hỏi có cần mang theo cái gì không. Anh ta cười, trong ấy không
thiếu thứ gì ngoài nước, trước khi đi cậu nên tắm rửa sạch sẽ. Tôi cứ
nghĩ là anh ta nói đùa.
Đi đường, chúng tôi đã dừng lại nghỉ không
biết bao nhiêu lần, phải nói thật là cảnh rừng núi quá đẹp, với lại
cái xe mink cà tàng phun khói mịt mù và lỳ ra không chịu lăn bánh. Đến
Bạch Đích, anh ta dừng lại lấy can hai mươi lít xuống suối múc một can
đầy nước chằng vào đằng sau xe. Anh ta bảo lấy nước để rửa mặt và nấu
ăn.
Nơi chúng tôi dừng chân là hai dãy nhà cấp bốn lợp ngói đỏ, một của nhà trường, một của uỷ ban xã.
Tôi nghỉ tại nhà trường, ở chung với người bạn, vậy là chúng tôi đã đi
gần mất một ngày chặng đường gần năm mươi cây số. Anh bạn lấy nước ra
rửa mặt. Chúng tôi nấu ăn qua loa rồi đi ngủ. Anh bạn tâm sự, nơi này
lúc nào cũng thiếu nước, cả vùng thiếu nước chứ không chỉ có Uỷ ban.
Mùa mưa còn đỡ vì có thể hứng nước mưa để dùng, còn mùa khô thì trăm
ngàn cơ cực. Anh chị em giáo viên quần áo mặc đúng một tuần, ngày nghỉ
mới đem đi Bạch Đích để giặt và tắm luôn. Hàng ngày nhiều lúc phải nhịn
đói vì không có nước để nấu. Ai không có điều kiện đi lấy nước thì
phải mua, dân mang ngựa đi gùi, hai mươi ngàn một can hai mươi lít nước.
Cho nhau dăm ba chục ngàn không đắn đo bằng cho nhau ca nước. Có một
nghịch lý là có khi trong nhà rượu mua về còn nhiều hơn nước... Tôi vì
mệt đã ngủ từ lúc nào, không biết anh bạn đang nói thêm những gì sau đó.
Tôi đã được trở lại nơi ấy trong một chuyến công tác, niềm vui
cũng không lý giải nổi, nó mênh mang rộng lớn lắm, hừng hực như lò lửa
cháy đêm khuya.
Hết con đường trải nhựa, đến con đường đất đỏ, hai
bên đường chạy dài vào tận thung lũng là rừng thông non đang vi vu ca
hát, những cây thông mơn mởn xanh tràn đầy nhựa sống lung linh trong
nắng vàng.
Núi, tôi đang đi trên vai ngọn núi. Thung sâu từng mảnh
nương ngô đã xanh um sắc lá. Gió và nắng đã làm rừng núi như cô gái
đang làm duyên trước khi xuống chợ, nét xuân làm đôi má cô cứ ửng hồng
còn đôi mắt lại sâu thẳm như khe suối trong.
Nơi ấy của tôi đã có
nhiều thay đổi, những ngôi nhà mới đã xoá đi màu tối bức tranh quê, xoá
đi cái đói, cái nghèo bám dai dẳng đến mấy mươi đời. Nét tươi mới đã
hiện rõ trên khuôn mặt con người. Nơi này con người đã biết lấy đá để
xây nhà, từng khối đá được đục đẽo gọt dũa rất đẹp, chạm khắc những nét
hoa văn tinh sảo.
Cái nắng vẫn còn chan hoà, tôi đứng ở lan can
tầng hai trụ sở Uỷ ban xã nhìn ra vùng núi trước mặt, một làn gió oi
nồng thổi lại, mùi của đất, của đá, của cây cỏ thoảng bay, tôi đón nhận
trong ngất ngây niềm xúc cảm. Nơi con đường tôi vừa đi qua, hai bên là
nương ngô, bóng người thấp thoáng vun đất vào gốc từng cây ngô đang
xanh lá. Cao hơn nữa là đỉnh núi, nơi có rừng cây. Anh bạn cùng đi thắc
mắc:
- Sao dân không chặt cây ở đây nhỉ?
Anh cán bộ xã cười:
- Rừng cây này đã cấm chặt phá từ lâu rồi, chứ không chỉ trong vòng một tuần là sạch trơn nhẵn nhụi.
Anh bạn vẫn thắc mắc:
- Thế họ lấy củi ở đâu để đun?
Anh cán bộ xã lại giải thích:
- Họ phải đi xa hơn, lấy củi ở những vùng không cấm.
- Họ không chặt trộm cây sao?
- Không ai dám chặt, người dân ở đây coi những khu rừng đầu nguồn,
rừng bảo vệ là những nơi thiêng. Họ bảo vệ bằng chính luật tục của bản
làng, nên họ không dám vi phạm.
Cuộc nói chuyện đã không kéo dài,
anh bạn rủ tôi đi dạo quanh Uỷ ban. Tôi nhìn vào trong bể, thấy có
nước. Tôi nhìn quanh phát hiện ra dây nước được kéo từ trên núi xuống.
Tôi cầm dây nước lên, một dòng nước trong nhỏ bé chảy ra. Tôi hỏi một
người đứng gần, anh ta cho biết nước được lấy về từ bên kia núi, đi bộ
mất khoảng hơn nửa tiếng đồng hồ.
Anh bạn rủ tôi đi xem những ngôi
nhà xây bằng đá. Chúng tôi trở lại con đường vừa đi vào Uỷ ban. Những
ngôi nhà nhìn bên ngoài có kiểu cách tương đối giống nhau, nhà nào cũng
làm hai tầng, tầng trên chỉ cao bằng một nửa, có khi chỉ bằng một phần
ba tầng dưới. Nhà có ba phần mái, phần mái chính chạy dọc theo nhà,
chịu trách nhiệm che mưa nắng cho ngôi nhà, hai phần mái phụ vuông góc
với mái chính nằm ở phần mái phía trước ngôi nhà tạo một kiểu cách khác
hẳn so với nơi khác.
Trên đường, từng đàn bò, dê nối đuôi nhau về
bản đi ngang qua chỗ chúng tôi đứng. Con nào con nấy béo núng nính.
Cách một đoạn là đứa bé khoảng chín mười tuổi đi cùng đàn bò. Tôi đi
theo một tốp có ba đứa trẻ để trở lại Uỷ ban. Một đứa trẻ hỏi tôi:
- Anh đi đâu đấy?
- Anh đi ngắm núi! - Tôi trả lời.
Nó cười, mấy đứa cùng cười:
- Núi có gì hay mà anh ngắm? - Một đứa khác hỏi.
- Hay chứ, hay nhiều nhiều đấy. Con chim gì đấy, em?
Tôi chuyển đề tài khi thấy một đứa có con chim đang đậu trên cánh tay.
Nó cười không nói gì. Đàn bò đi tiếp vào con đường được xếp bằng những
tảng đá lớn để về bản. Tôi rẽ sang con đường đi vào Trụ sở Uỷ ban xã.
Tôi vào phòng của đoàn thể gặp chị Hội trưởng Hội phụ nữ xã, một người
khá đặc biệt, tôi nghĩ vậy, chị rất trẻ so với cái tuổi bốn mươi tám,
chị rất xinh, chắc hồi còn con gái phải xinh lắm để đến bây giờ nét
duyên vẫn còn đằm thắm đến thế. Chị nói chuyện rất cởi mở và có duyên.
Chị cho biết, cha chị là người Mông ở Đồng Văn. Gia đình nghèo đói quá
mới đem cha chị bán cho bản người Dao. Cha chị sống cuộc đời tôi đòi,
phải làm nhiều thật nhiều còn ăn thì thật ít. Cha chị đã từng phải ăn
quả rừng thay cơm. Nhiều đêm ông phải ngủ trên rừng khi đến mùa vụ để
canh giữ nông sản, hoặc khi thú rừng về phá mùa vụ ông cũng phải ở trên
rừng,...
Cuộc sống lao động cho ông vóc người cao lớn, khoẻ mạnh,
còn việc ông làm được luôn gấp đôi người khác. Bằng tuổi người ta đã
có người nhóm bếp lửa, che ô khi cùng nhau đi chợ, cha chị đi đâu vẫn
một mình. Số phận tôi đòi của cha chị đã làm nhiều cô gái e ngại không
dám lấy làm chồng mặc dù cái bụng rất muốn. Tiếng kèn lá của cha chị
trong những đêm hội đã làm nhiều cô gái mải nghe quên cả đường về. Rồi
một hôm, không ai dám tin, người con gái út của Tẩn A Pá, một trong ba
gia đình giàu nhất tổng đã đem lòng yêu cha chị. Cha chị bị người ta
lấy roi da bò đánh suốt một ngày, rồi phơi nắng ba ngày nữa. Mẹ chị
cũng bị nhốt ở trong nhà bắt uống lá thuốc cho ra cái thai trong bụng.
Mẹ chị nhất quyết không uống và cũng nhịn ăn từ khi người ta bắt cha
chị. Nếu họ bắt cha chị chết thì mẹ chị cũng sẽ không sống nữa. Sau
cùng họ đã nhất trí với cách giải quyết là đưa hai người lên khu rừng
già ở tít trong núi sâu. Mọi người coi họ như con ma ác, phải bỏ đi
thật xa. Mẹ chị đã sinh ra chị trên rừng. Năm năm sau ông ngoại lên đón
mẹ chị và chị về nhà. Bố chị cũng được quay về nhưng vẫn phải sống
kiếp tôi đòi như trước. Ông ngoại không cho chị mang họ của bố, kẻ đã
bị bán đi không còn họ, chị mang họ Tẩn của mẹ. Bố chị đã mất sau đó
không lâu, ông bị đưa đi chôn cách đó mấy dãy núi, lên tận khu rừng
già, ông không được coi là người dân trong tổng nên phải đem chôn thật
xa, ngoài vùng đất của tổng. Mẹ chị cũng mất khi chị lên mười...
Chị chưa kịp kể lại cho tôi nghe tiếp đoạn đời còn lại thì có người đã gọi chị đi hoà giải một vụ mâu thuẫn gia đình.
Tôi lại lên tầng hai đứng ở lan can nhìn ra khu rừng và nương ngô, một
màu xanh xen lẫn màu đá xám tai mèo trải dài khắp các sườn núi. Nơi ấy
thấp thoáng bóng người vun ngô đang mờ dần trong sương.