Trong thời gian qua chúng ta thường nghe nhiều cuộc thảo luận về sự cần thiếtcủa mô hình xây dựng tập đoàn kinh tế mạnh để có đủ lực cạnh tranh, phát triển.Bản dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2011-2020 cũng đã đề cậpđến vấn đề này, tham khảo mô hình tập đoàn kinh tế của Nhật Bản, Hàn Quốc, TrungQuốc và đánh giá các Tổng công ty nhà nước.
Có lẽ chúng ta cần nhìn lại để hiểu rõ hơn ý nghĩa thật sự của “tập đoàn kinh tế”là gì, chúng ta có cần nó không, và nếu có thì bản chất của nó nên ra sao để đápứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội bền vững của chúng ta?
Con người làm ăn từ thuở nào đều có tham vọng thâu tóm vì ai cũng nghĩ là muốnmạnh thêm thì phải to hơn, để có độ chủ động cao hơn, có nhiều quyền, thế và lựchơn. Đây là một tư tưởng phổ biến, vì tính dễ thuyết phục của nó. Nó cũng thỏamãn cái “ngông” trong tâm lý con người. Nhưng sự tương quan giữa tầm vóc và sứcmạnh có một vế khác: đó là mạnh thì có thể phải lớn, nhưng lớn chưa hẳn đã mạnh.Lớn mà không mạnh thì dễ có nguy cơ đột quỵ. Như vậy, vấn đề ở đây là phải lớnnhư thế nào để mạnh, chứ không phải chỉ làm sao cho lớn.
Trong lịch sử cận đại, mô hình tập đoàn kinh tế hình thành rõ nét nhất là ở Đứcsau Thế chiến thứ nhất với tập đoàn Stinnes Enterprises. Sau đó đến các tập đoànkhác ở châu âu và ở Mỹ. Các tập đoàn này ra đời sau chiến tranh vì những doanhnghiệp tương đối còn mạnh sau các thế chiến có cơ hội mua các doanh nghiệp khácvới giá rất bèo. Các tập đoàn này thành công rất nhanh nhờ vào làn sóng pháttriển thời hậu chiến.
Sau Thế chiến thứ hai thì các tập đoàn châu Á bắt đầu thành hình, với nhữngKeiretsu ở Nhật và sau đó là những Chaebol ở Hàn Quốc. Các tập đoàn này ra đờitừ nhu cầu của xã hội sau chiến tranh và được sự hỗ trợ của chính phủ.
Nhờ cónhu cầu thật, nhờ vào ý chí phải vươn lên từ cái nhục của kẻ bại trận (Nhật Bản)và nghèo khổ sau chiến tranh (Nhật Bản và Hàn Quốc), và quan trọng hơn cả làtính kỷ luật trong văn hóa xã hội của hai nước này, chỉ trong vòng hai thập niênthế giới đã bắt đầu biết đến những cái tên như Mitsubishi, Sumitomo, Mitsui,Samsung, LG, Huyndai…
Mô hình tập đoàn kinh tế, chủ yếu là những tổng công ty nhà nước, phổ biến ởTrung Quốc và Việt Nam. Mặc dù đã qua nhiều nỗ lực để cải tổ hệ thống quản trịvà các khung pháp lý cần thiết (từ luật doanh nghiệp năm 2000, rồi 2003, rồi mớiđây cuối năm 2009), thời gian đã cho thấy các tập đoàn vẫn gặp nhiều khó khăntrong việc vận hành có hiệu quả; các tổng công ty nhà nước vẫn còn những hạn chếnhất định; còn nhiều biểu hiện rõ nét là Nhà nước vẫn chưa thật sự quản lý đượctương đối hiệu quả đồng vốn đầu tư trong vai trò đại diện chủ sở hữu vốn của dân.
Các tổng công ty nhà nước “giữ vai trò chủ đạo và chi phối trong nền kinh tếquốc dân” là một chủ trương lớn của Nhà nước, nhưng vấn đề ở đây là ai có tráchnhiệm quản lý đồng vốn đầu tư và có quản được không? Hiện nay vẫn chưa có quyđịnh báo cáo công khai kết quả kinh doanh của các tổng công ty nhà nước. Cáctổng công ty này chỉ có trách nhiệm báo cáo lên Chính phủ, nhưng ai đọc, giámsát, có trách nhiệm xử lý khi có vấn đề thì không rõ, vì vậy các sai phạm sẽ khóđược phát hiện kịp thời để sửa sai.
![]() |
Nhà nước ở đâu cũng có những giới hạn nhất định và không thể giám sát toàn diện,nếu hệ thống tổ chức không có khả năng tự kiểm soát và có tính minh bạch cao đểngăn ngừa sai phạm, và nếu sai phạm thì sẽ bị xã hội phát hiện sớm để có áp lựcsửa sai.
Nhà nước có trách nhiệm đặt chủ trương, định hướng phát triển và ngay cả quyếtđịnh phương thức triển khai. Nhưng vì đồng vốn là sở hữu của toàn dân, Nhà nướcchỉ đại diện dân sử dụng đồng vốn đó, cho nên phải tạo mọi điều kiện cần thiếtđể người dân có quyền và trách nhiệm giám sát việc sử dụng vốn qua các tập đoànkinh tế nhà nước. Đây là điều kiện cơ bản nhất trong kinh doanh: chủ sở hữu vốnphải biết được ai đang sử dụng đồng vốn của mình, để làm gì, cho mục đích gì, cóhiệu quả không?
Trở lại vai trò của nhà nước trong việc xây dựng các tập đoàn kinh tế. Các tậpđoàn kinh tế ở Nhật và Hàn Quốc đều huy động vốn (phần lớn) trực tiếp từ dân, dotư nhân điều hành, có trách nhiệm báo cáo rạch ròi với cổ đông và nhà nước. Vớitinh thần trách nhiệm cao (đồng tiền liền khúc ruột) và từ đó khả năng quản lýtốt, các tập đoàn kinh tế này đã có những thành tựu vượt bậc trong mấy thập niênqua.
Tuy nhiên, vì có mối quan hệ chặt chẽ và mật thiết với nhà nước (nhất trí về chủtrương và đường lối phát triển, nhận ưu đãi về mặt thông tin thị trường và tíndụng từ nhà nước), nên mô hình này đã có những mầm mống rủi ro lớn, chứa đựngtính độc quyền, bè phái, tham nhũng.
Từ hai thập niên nay, các tập đoàn kinh tế Nhật đã gặp phải nhiều khó khăn vìkinh doanh quá dàn trải, thiếu tính linh hoạt, tỷ suất lợi nhuận thấp (thườngdưới 1% trên doanh thu) cho nên khó tồn tại trong tình huống kinh tế gặp khókhăn.
Rủi ro lớn nhất là các tập đoàn kinh tế ở hai nước này tập trung quá nhiềuquyền và lợi vào một thiểu số doanh nghiệp cho nên khi gặp khó khăn, bị giải thể(như trường hợp Tập đoàn Daewoo của Hàn Quốc) sẽ có ảnh hưởng lớn đến xã hội -nhiều lao động bị thất nghiệp, nợ xấu quá lớn, hệ thống tài chính bị quá tải khóđiều chỉnh kịp thời gây ảnh hưởng dây chuyền.
Trong khi đó, Đài Loan có cùng một xuất phát điểm sau Thế chiến thứ hai như Nhậtvà Hàn Quốc và cũng đã trở thành một con rồng châu Á chỉ sau hai, ba thập niên.Tuy nhiên, chiến lược phát triển của Đài Loan dựa vào: 1) sự chủ động của thànhphần kinh tế tư nhân, đặc biệt là các công ty vừa và nhỏ, với rất ít hỗ trợ củachính quyền; 2) giới hạn các ngành nghề lĩnh vực then chốt cần chính quyền thamgia.
Trong những năm thập niên 1950, các công ty thuộc chính quyền đóng góp trên 75%GDP. Nhưng vì chính sách hỗ trợ sự phát triển các công ty vừa và nhỏ, đến thậpniên 1980 thì thành phần kinh tế tư nhân chiếm hơn 75% GDP. Đến nay thì rõ rànglà Đài Loan đã thành công hơn với một nền kinh tế phát triển tốt, bền vững, côngbằng hơn cả Nhật Bản và Hàn Quốc.
Với kinh nghiệm của các nền kinh tế đã đi trước và thực tế hiện tại của kinh tếnước ta thì có lẽ khái niệm tập đoàn kinh tế cần được nhìn dưới một góc độ mở vàlinh hoạt hơn:
1. Không nhất thiếtphải là một định chế có một tầm vóc nhất định, mà cái chính là nó làm được gì,đóng góp gì được cho nền kinh tế; như vậy hãy để thị trường quyết định ai nênlớn và mạnh như thế nào, có lợi ích cho ai.
2. Là một sự kết nối hợp lý, tự nguyện có giá trị hỗ tương giữacác doanh nghiệp khác nhau - quốc doanh lẫn tư doanh - và cũng không nhất thiếtphải là “mẹ-con”; nhiều con mà nuôi dạy không tốt, quản lý không tốt cũng thànhmối họa, bỏ thì thương, vương thì tội. Sự kết nối này sẽ giúp các công ty thànhviên phát huy thế mạnh của mình, sử dụng được thế mạnh của công ty bạn mà khôngcần nhiều ràng buộc có thể trở thành gánh nặng trong bước đường phát triển.
3. Như vậy nên nhìn tập đoàn kinh tế là một hiện tượng pháttriển tự nhiên từ nhu cầu thị trường và khả năng phát triển của mỗi doanh nghiệpmà không cần phải có một cơ chế áp đặt, ưu đãi, ngoại trừ một số điều kiện pháplý cơ bản để tránh sự độc quyền, thao túng thị trường.
Tuy nhiên, bất cứ một mô hình kinh tế nào cũng chỉ có cơ hội phát triển tốttrong một môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng, lành mạnh. Đây mới chínhlà trọng tâm của vai trò Nhà nước. Doanh nhân Việt phải có cơ hội tập huấn trênmột sân nhà có chuẩn quốc tế thì mới có thể nâng cao khả năng cạnh tranh và hộinhập kinh tế thế giới thành công.
Khả năng để kinh tế Việt Nam đạt được mức tăng trưởng cao “có chất lượng” trên10% là hoàn toàn trong tầm tay với thế hệ con người Việt Nam đang tràn đầy sinhlực, năng động, khát khao vượt khó, nếu chúng ta cùng nhau nỗ lực xây dựng mộtmôi trường kinh doanh xứng đáng hơn với tiềm năng phát triển lịch sử của đấtnước.
Theo Trần Sĩ Chương
Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần