Chợ ba mươi Tếthọp từ sáng đến chiều. U đội thúng cau tươi, thày trảy từ hôm trước. Anh lũntũn chân trần chạy theo sau.

Chiều cuối năm. Anh đứnglặng trên bờ đê cao. Ánh nắng cuối chiều đang lụi dần, hiu hắt một màuvàng nhạt trải mỏnh mảnh trên dòng sông quê. Cây si cổ thụ già nua trầmngâm buông râu chấm xuống tận nước sông. Núi con Rùa thấp thoáng mờ xatrong khói lam chiều kéo anh về với ký ức một thời nhớ nhung da diết.Bến sông Vân vắng khách, con đò con hững hờ neo bến đậu và quán nước bàTèo dưới gốc cây si không còn nữa làm cho anh nuối tiếc, hoài niệm khắckhoải tuổi thơ xưa. Vậy là anh đã về bến sông xưa, anh đã về làng Yên Hạsau mười lăm năm phiêu du nơi đất khách quê người.

- Đò ơ... ơ... ơi.

Dòng sông im ắng, ủ ê trong chiều vắng bỗng bừng lên vọng lại tiếng gọiđò của anh. Một con chim lẻ đàn đi kiếm ăn xa đang về vụt cánh bay lênchấp chới  trên mặt sông quê. Người đàn ông lái đò gầy đen lạ hoắc chốngcây sào đẩy thuyền rời bến. Một cái mũ cối bộ đội chụp trên đầu, kéo sậpxuống trán anh ta tùm hụp. Anh đã thoáng bắt gặp ánh mắt anh ta sáng lênkhi chạm phải cái nhìn của anh.

- Bác lái đò ngang lâu chưa? - Anh hỏi.

- Ô. Dễ bác lần đầu qua đây. Năm, sáu năm nay em vẫn cầm chèo lúc rỗirãi. Nhưng mà cũng sắp nghỉ rồi.

- Sao vậy? Hay là bác chán đò.

- Thế ra bác không để ý à. Đất đổi sao rời rồi. Con đò rách của em cũngsắp đến ngày làm củi. Người ta đang xây cầu vĩnh cửu kia kìa.

Anh nhìn lên phía thượng nguồn sông Vân. Cách bến đò ngang vài trămthước, mấy mố cầu đang xây lấp loé ánh lửa hàn. Thợ làm cầu chiều cuốinăm chưa nghỉ. Một cái ca nô đang rẽ nước dạt vào bờ sông đổ đá hộc.Không chỉ tiếng gọi đò của anh lan trên mặt sông, mà anh còn cảm nhậnđược dưới đáy con sông quê đang có sóng và cả sóng ở trong lòng anh nữa.

- Tết năm nay, người đi xa có trở về làng nhiều không bác?- Anh lại hỏi.

- Về hết. Thằng cu Tũn đi du học ở Úc về chiều hôm qua. Nó cao, to tolà, mặc đồ tây com lê, thắt ca la vát xuống đò mà em không nhận ra.Thằng Cột, thằng Kèo, con Hĩm, con Na, thằng Ổi, con Mít đi làm ăn,phiêu dạt tận Sài Gòn, Tây Nguyên cũng lần lượt qua đò về làng từ hômông Táo lên trời cơ. Chỉ còn thằng Cò con ông Vạc là chưa về.

Mưa xuân
Ảnh minh họa

Lòng anh bỗng thắt lại.Câu chuyện của người lái đò cứ như những mũi kim chích vào tim anh thonthót. Anh muốn kêu lên: Thày Vạc ơi! U Vạc ơi! Con đã về đây rồi. Nhưngcổ họng anh cứ nghẹn lại. Còn người lái đò thì cứ như vô tình với nỗiđau của anh.

- Thằng ấy bỏ bố mẹ, bỏ làng đi từ cái năm vỡ đê sông Vân; dững mười lămnăm rồi. Tết năm nào mẹ nó cũng khóc. Cứ chiều ba mươi là bà Vạc ra bếnsông đứng ngóng con về. Một năm, hai năm... mười năm, rồi mười hai năm…,bà ấy chờ đến chuyến đò cuối cùng của chiều cuối năm. Thôi đò chiều kịchbến rồi. Có dễ bác là người sang đò muộn nhất chiều nay.

Lúc này thì lòng anh rưng rưng. Anh vội lén quay mặt đi chùi nước mắt.Anh nhảy vội lên bờ, bước đi như bước trên không trung. Nhưng rồi anhcũng quay lại hỏi người đàn ông lái đò:

- Sao năm nay bà ấy không ra bến hở bác?

- Ôi dào ơi. Tôi đã bảo vật đổi sao rời mà. Bà Vạc mất đã ba năm rồi.

Anh xây xẩm mặt mày, nước mắt trào ra. Anh không kịp về với u rồi. Biềnbiệt kiếm ăn nơi đất khách quê người, lúc ở nơi này lúc đến chỗ kia, mảimê kiếm tiền đến lúc anh về thì u đã ra đi.

Mắt anh nhoà đi. Những tháng ngày còn bé bên u đã xa vụt trở về. Chợ bamươi Tết họp từ sáng đến chiều. U đội thúng cau tươi, thày trảy từ hômtrước. Anh lũn tũn chân trần chạy theo sau. Tiếng trống cơm, nhị hồ, đànbầu, tiếng hát xẩm lẫn tiếng vịt quác, lợn kêu, tiếng người đi chợ muabán huyên náo. Thì ra, dưới gốc cây đa cổ thụ ngay đầu chợ đang có mộtgánh hát xẩm. Người đàn ông mù rất khéo, tay kéo hồ, chân gõ mõ, lúc thìbỏ hồ gảy đàn bầu, đánh trống; có khi còn há hốc miệng hát đế theo ư ử.Một mình ông ta chơi thạo hết các nhạc cụ, biểu diễn bằng một dàn nhạcvậy. Người đàn bà cầm một cây nhị kéo và nhẳng dài cổ như cổ cò hátnhững làn điệu sẩm đượm buồn. Thằng bé chắc cỡ tuổi anh, nhưng mặt giàcấc và người nhỏ như nắm cơm, tay cầm cái nón mê ngửa ra xin, nó điquanh vòng người đã đan kín mít. Thằng bé chỉ chịu quay về chỗ người đànbà hát khi người đàn ông tom chát rồi gõ dặp dùi vào tang trống báo hiệuchuyển một làn điệu mới. Không hẳn là một cách kiếm tiền mà còn là mộthình thức sinh hoạt dân gian lâu đời gắn liền với chợ quê; cái hình ảnhgánh hát sẩm cứ ám ảnh và đi theo anh suốt những năm tháng dài ở trờiTây. Thằng bé cầm nón mê xin tiền cho gánh hát sẩm ngày xưa, chẳng biếtbây giờ số phận nó ra sao? Nó đã lấy vợ và chắc chắc không còn đi hátsẩm nữa, vì khắp cả vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng không còn ai hátsẩm. Có thể nó đã đi bộ đội và chưa biết chừng đã trở thành một sĩ quancấp tá rồi; thế gian vật đổi sao rời, ai mà biết trước được điều gì sẽxảy ra?

Anh còn nhớ: U ngồi bán cau tươi và lá trầu không thì anh cứ lân la, dụtdè bên hàng tò he. Sau này ở trời Tây, ngồi một mình trong phòng đónngày lễ giáng sinh, anh lại nhớ mẹt đựng tò he đến phát khóc. “Thằng nàyđi chơi cho tao bán hàng.”- Ông lão mặc áo nhuộm củ nâu vừa nặn vừa bántò he ngày ấy đã quát mỗi khi anh quẹn đến gần. Mẹt tò he với nhữngthằng người dị biệt và các con giống nhuộm phẩm đủ sắc màu là cả một thếgiới lung linh, kỳ ảo trong đầu anh. Anh ước ao u mua cho anh hai con,ba con... không, u mua cả mẹt tò he cho anh chơi cơ. Nhưng ước mơ cũngvẫn là ước mơ. Bán cau xong, u cởi bao tượng móc tiền xu mua cho anh mộtcái bánh đa và chỉ mua cho anh một con tò he. U bảo: “Chơi vậy thôi, nhàmình nghèo, để dành tiền cho u còn sắm tết.”. Về đến nhà, anh đã thấythày đang sửa soạn và cầm phất trần làm bằng lông gà trống phẩy bụi ởbàn thờ. Thày còn bày bộ tranh Đông Hồ: Gà trống, rồi Xuân - Hạ - Thu -Đông ra treo lên tường. Trong lúc chờ làm cơm cúng tất niên, anh đã tótra sân đình chơi tò he với thằng Ton con ông Tèo người họ Trần to nhấtlàng. Ông Tèo chở đò, còn bà Tèo bán quán dưới gốc cây si ở bến sông nênnhà ông có đồng ra đồng vào. Tết đến năm nào thằng Ton cũng có cả mẹt tòhe để chơi con nọ đánh con kia. Còn anh chỉ có một con lẻ đàn cô đơntrong túi áo. 

Tết năm ấy, thằng Ton thua cả mẹt tò he. Nó tiếc của, tiếc đồ chơi, đòilại. Lời qua tiếng lại rồi hai đứa đánh nhau. Đến bây giờ anh vẫn cònnhớ cái trưa ngày ba mươi tết, bà Tèo dọn hàng về thấy con thua hết tòhe, bà tiếc của bà gào từ sân đình về nhà: “Mày ăn kẽo tò he của con bàthì mày phải trả nhá. Không thì bà hò hổng cho hết chiều ba mươi, hếtđêm giao thừa, sang ngày mùng một đến ngày mùng hai, hết tháng rộng ngàydài đến năm cùng tháng tận nhá. Cái quân khố rách áo ôm, nghèo rớt mùngtơi kia...”. U biết, u bảo anh đem trả, anh lại khóc um lên. Rồi u cũngkhóc. U tức mình, u gắt: “Không thèm, đem trả ngay”. Rồi u bớt tiền bántrầu sắm tết, u bảo chị Gái chạy nháo ra chợ trưa mua hết mẹt tò he củaông lão mặc áo nhuộm củ nâu đem về cho anh.

Đêm giao thừa năm ấy, anh lại thấy u thỉnh thoảng lấy tay áo chùi nướcmắt. Còn thày ngồi uống rượu trầm ngâm như suy ngẫm sự đời. Một lúc sau,thày bảo:

- Chuyện trẻ con, đàn bà, chấp làm gì.

- Ông đừng tưởng thế đâu. Cái họ Trần với con dâu họ ấy xưa nay vẫn vậy.Cậy thế họ to, giàu có bắt nạt họ bé, nghèo túng.

U vẫn còn ấm ức.

- Nghèo nhưng thanh bạch, không hèn mới không là kẻ tiểu nhân. U màychấp với người ta làm gì.

- Nhưng mà tôi không chịu nhục. Tôi rất khoát không để người ta khinh họnhà ông.

Lần ấy, anh biết như thế nào là giàu sang, nghèo hèn. Càng lớn lên anhcàng thấy họ Hoàng nhà anh lép vế. Chỉ mười ba hộ, hơn ba chục đinh họnhà anh lọt thỏm vào tám chục đinh họ Vũ, ba trăm đinh họ Trần tronglàng. Bé yếu thì mất thế, nghèo thì hèn, loay hoay mãi ở cái làng Yên Hạmà họ nhà anh vẫn nghèo, vẫn không ngóc đầu lên được...

Những năm bôn ba ở trời Tây, anh vẫn cái hôm ra đi. Hội làng Yên Hạ mởđến ngày thứ ba. Cờ phướn, đuôi nheo, tua rua bay rợp trời cắm dọc conđường từ chùa Cháy đến sân đình. Thày lại dặn dò:

- Con đã lớn rồi. Mọi sự ở đời tuỳ con định liệu. Thày nói ít. Con hiểunhiều.

Bác trưởng họ thì bảo:

- Làng này chưa có ai tiến sĩ, giáo sư. Bác giao nhiệm vụ cho cháu Cò. Àquên cháu Công. Hừ chúng mày học lên cao là cứ đổi tên lung tung. Bácnói này, học xong đại học ở nước ngoài, cháu phải phấn đấu lấy cái bằngtiến sỹ về cho bác. Cả họ trông mong vào cháu. Cháu phải làm vẻ vangdòng họ Hoàng, lúc cháu về cho cả cái làng Yên Hạ trông vào cháu phảilác mắt. Các họ phải kiềng mặt họ nhà ta.

Cầm tay nải đưa cho anh, u bảo:

- Năm nay, làng bảo: Họ Hoàng tuỳ tâm mà đóng tiền tế lễ. Còn bao nhiêucác họ khác bổ nhau chịu. U nghe mà đứt cả ruột. Thà họ cứ nói toạc ralà họ nhà mình nghèo, đóng được bao nhiêu thì đóng; còn cho dự ké hộilàng cũng đỡ tức. Nhưng mà thôi, u không mong anh mang nhiều tiền củavề. U chỉ mong anh học hành đến nơi đến chốn, đi chín về mười là u mừng.Tiền của bao nhiêu ăn tiêu cũng hết. Chỉ có con người là quý nhất thôi.

Chị Gái chả nói gì, chỉ thút thít khóc.

U và chị Gái tiễn anh ra đến tận bến sông Vân. Mới ra giêng, mưa xuânlất phất bay. Dòng sông lững lờ trôi. Anh nhìn trời, nhìn đất, nhìn dòngsông Vân, rồi nghĩ về làng với bao kỷ niệm buồn vui. Buổi chợ và nhữngcon tò he, cái nghèo hèn, sự giàu sang với các họ trong làng. Thằng Tonchở đò thay cho thày nó đi hội làng. Đôi vai u lên, cổ ngắn tũn, nóchẳng nói chẳng rằng câu nào, cứ lặng lẽ quẫy chèo. Lúc anh bước khỏithuyền lên bờ, nó mới bảo:

- Chuyến này mày đi Tây lúc về giàu lắm nhỉ.

- Ừ. Không giàu tao nhất quyết không về làng.

Lúc đó anh đã bật lên lời thề độc như vậy. Thằng Ton bảo:

- Tao mong mày giữ được lời thề.

Nói rồi nó quay đò, lao sang bờ bên kia. Anh trèo lên bờ đê cao, nhìn vềlàng Yên Hạ. U và chị Gái vẫn đứng ở bến sông nhìn sang trong buổi sángtháng riêng mưa xuân vời vợi nhớ thương.

Những năm sau này, anh cũng không nghĩ rằng mình lại xa quê lâu đến thế.Anh vừa học đại học vừa đi rửa bát thuê kiếm tiền. Anh học giỏi đượcchuyển tiếp làm nghiên cứu sinh, nhưng anh đã bỏ học đi kiếm tiền nơiđất khách quê người. Bươn trải lăn lộn, anh chưa giàu nên anh chưa thểvề làng. Thấm thoắt đã mười năm, mười lăm năm bỏ làng xa xứ, đi học vàkiếm tiền làm giàu. Bây giờ thì anh đã về đây, về làng Yên Hạ.

- Ối giời ơi! Ai như...

- Chị... chị là ... Ôi! Chị Gá... Gái. - Anh nghẹn ngào.

- Cậ... ậ... Cậu...Cò.- Giọng chị Gái cũng run lên, ngỡ ngàng.

- Vâ... vâng! Em đây.

- Ông ơi! Nhà ơi! Các con ơi! Cậu Cò về. Cậu Cò về đây này.- Chị mếumáo. - Chị chẳng còn nhận ra. Thế mà người ta cứ ồn cậu tham giàu, đãlấy vợ Tây, ở hẳn bên Tây.

Chẳng mấy chốc người trong họ kéo đến đầy nhà. Ai cũng mừng vui, khenanh ăn cơm tây béo tốt ra. Chỉ phải cái già hơn ngày ra đi nhiều quá.Cũng phải thôi, hai mươi năm rồi còn gì. Anh thấy nôn nao trong lòng.Bác trưởng họ giờ đã thành một ông già tóc râu bạc trắng. Ông gật gù:

- Khá. Thằng Cò khá. À quên giờ phải kêu là anh Cò. Mang cái bằng tiếnsĩ ra đây bá cáo. Tôi đã định rồi ngày mười hai ta dỗ họ làm phe là anhphải mang cái tiến sĩ để bá cáo với các cụ ở nhà thờ họ. Ngày xưa làphải vinh quy bái tổ ấy chứ. Vậy là họ Hoàng nhà ta xứng rồi.

- Nhưng chưa bằng họ Trần có anh Tôn đi bộ đội về làm xã đội trưởng đấy,ông trưởng họ ạ.

Có tiếng của ai đó chen vào.

- Thì họ ta có chị Gái làm chủ tịch xã. Hơn đứt họ Trần cái anh tiến sĩnày. Ra giêng là tôi tổ chức xây nhà thờ họ. Anh Cò là phải đóng phầnkinh phí lớn đấy.

Anh không dám nói rằng anh chỉ có bằng đại học thôi, anh bỏ làm tiến sĩđi buôn và làm ăn phạm luật phải chịu vòng lao lý của nước bạn trong nhàtù một thời gian dài, nên cứ vâng vâng, dạ dạ. Cho đến khuya, mọi ngườiđã về hết thì anh mới nói chuyện với thày. Thày già quá, còn già hơn cảông trưởng họ. Thày làm mặt giận. Thày bảo:

- Đành rằng anh là người có chí, quyết ra đi rửa nhục. Nhưng bây giờ anhcó mang bao nhiêu ngọc ngà châu báu về thì u anh cũng mất rồi.

Chị Gái năn nỉ:

- Thôi, con xin thày. Đằng nào thì cậu Cò cũng đã về rồi. Đến mai conđưa cậu đi viếng mộ u.

Anh biết thày giận nhưng thày vẫn thương anh. Anh cứ lặng im nghe thàynói. Và anh lại nhớ đến u, nhớ đến buổi chợ Bút sáng ba mươi tết ngàytrước bên mẹt tò he...

Sắp đến giờ giao thừa, anh hỏi thày:

- Năm nay thày có ra điếm cúng không?

- Anh cũng còn nhớ cơ à? - Thày hỏi lại.

- Con bấm đèn pin cho thày đi nhá.

- Ừ. Ngày trước chỉ có đèn chai thôi.

Thày đi trước, anh xách đồ cúng đi sau. Chị Gái dặn chồng ở nhà vớt bánhtrưng ra ép để kịp cúng giao. Tiện đường chị đi cùng đến trụ sở uỷ banđể đi chúc tết Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Phía trước cũng loang loáng ánhđèn pin. Những bước chân tới gần, rồi tiếng chào hỏi, chúc sức khoẻ sớm.Chị Gái giới thiệu anh với xã đội trưởng Tôn. Xã đội trưởng Tôn bảo: 

- Chúng tôi gặp nhau lúc chiều ở bến sông rồi.

- Thế anh lại là người đàn ông chèo đò?

- Vâng. Thày tôi giờ yếu rồi. Thỉnh thoảng tôi cũng cầm chèo đỡ cho thàytôi. Như người tập thể dục, lại muốn trở về với ngày xưa. 

- Vậy là anh tên là Tôn. Ngày xưa anh béo ú, bây giờ thì gầy quá. Anhcòn nhớ chơi tò he với tôi, chở đò cho tôi qua sông dạo tôi đi học ởnước ngoài không?

- Thì vưỡn. Tôi thì nhận ra anh, còn anh thì... Nhưng mà thôi, anh thấylàng xã có thay đổi nhiều không? Anh đã về rồi. Sang xuân tôi sẽ đếnchơi. Chúng ta đang nhiều việc phải làm lắm, chị Gái nhỉ?  

Lúc anh và thày anh ởđiếm về đến nhà thì tiếng trống đồng trong vô tuyến truyền hình đã vanglên, giao thừa đến. Trên trời có một vệt pháo sáng vụt lên. Ngoài bếnsông Vân, phía thượng nguồn vẫn lấp loé ánh lửa hàn. Thợ làm cầu khôngnghỉ, đón giao thừa trên sông. Ngoài trời bụi mưa đã lất phất bay. Đãbao năm xa anh bức bối, chưa được thấy mưa xuân quê nhà. Anh ngửa mặtđón những bụi mưa bay. Lòng anh chợt da diết, bâng khuâng trong tiếngcựa mình rất khẽ của chồi non bật dậy đón mưa sang xuân.

Theo Sương Nguyệt Minh
Đất Việt