Từ năm 1975 đến 1989 việcnhập, sản xuất, phân phối thuốc chỉ do Nhà nước thực hiện, số lượng nhập hạnchế, dựa chính vào thị trường các nước XHCN, sản xuất chỉ tập trung ở vài xínghiệp trung ương hay địa phương, số lượng ít, đơn điệu.
Ngày xưa có ích
Không có khám chữa bệnh tư, kinhphí bệnh viện (BV) công thiếu, chưa có chế độ thu viện phí bảo hiểm y tế (BHYT)để bổ sung thêm. Nhu cầu tăng, thiếu thuốc dẫn tới nhiều tiêu cực trong BV: thầythuốc ra y lệnh, khoa dược không có cấp, người bệnh phải “chạy” lấy thuốc. Nhânviên y tế tại buồng bệnh trực tiếp bán thuốc riêng, giới thiệu đến nơi bán thuốc“chui”, tự đặt ra lệ là nếu không mua thuốc đó thì không cho dùng.
![]() |
Người dân mua thuốc tại một nhà thuốc bệnh viện ở TP.HCM - Ảnh: T.T.D |
Trong bối cảnh ấy, các BV lập ranơi “nhượng lại thuốc”, rồi sau chuyển thành “quầy công đoàn”. Điều này tạo chongười bệnh có nơi mua tin cậy, kịp thời, giá không quá cao so với bên ngoài, gópphần xóa việc nhân viên y tế bán thuốc móc nối với nơi bán thuốc “chui”, lập lạitrật tự, nâng cao y đức.
Do tiêu chí phục vụ đúng đắn,mang lại một số lợi ích, khá hợp lý nên dù chưa hợp pháp, các sở y tế vẫn chohoạt động. Sau này, cùng với việc hình thành hệ thống nhà thuốc tư, các cơ sởnày được hợp pháp hóa thành nhà thuốc BV. Đây là nơi kinh doanh, không còn giữđược các tiêu chí phục vụ như trước.
Không còn phù hợp
Từ năm 1989, việc nhập, sản xuất,phân phối thuốc có tư nhân tham gia. Thị trường thuốc mở rộng, phong phú vớikhoảng 12.000 biệt dược (2007), đáp ứng đủ nhu cầu. Thuốc mới, đặc biệt, nếuchưa nhập chính thức, BV vẫn có thể xin nhập chuyến. Tuyến dưới nếu có yêu cầucó điều kiện vẫn có thể đề nghị dùng một số thuốc thuộc tuyến trên.
Điều 49 khoản 1 Luật dược quyđịnh: “Cơ sở khám chữa bệnh có trách nhiệm bảo đảm cung ứng đủ thuốc có chấtlượng trong danh mục phục vụ nhu cầu cấp cứu, khám chữa bệnh tại cơ sở…”.Chỉ thị 05/2004/CT-BYT quy định: “Giám đốc BV... tổ chức đấu thầu mua thuốc chữabệnh theo quy định của pháp luật...”.
Có thuốc, có các văn bản phápluật điều chỉnh, BV có trách nhiệm và đủ khả năng sắm đủ thuốc, có chất lượng,giá cả phù hợp cho mọi đối tượng nội trú và cấp ngoại trú BHYT. Chỉ còn một bộphận nhỏ chưa có thẻ BHYT phải mua thuốc ngoại trú…
Đối tượng không có thẻ BHYT phảimua thuốc ngoại trú không lớn, bệnh thường không nặng, nếu kê đơn đúng thì đơnkhông thể gồm quá nhiều loại, càng không thể có các loại khó kiếm, đắt tiền.Ngay nơi BV đóng, thậm chí chỉ cách BV vài bước chân, đã có hệ thống bán lẻ rộngkhắp. Mạng lưới đó đủ sức cung cấp cho các đối tượng trên. Nên để cho người dânđến các nơi này lựa chọn thoải mái, không nhất thiết mua tại nhà thuốc BV vớibao nhiêu vị nể, ràng buộc.
Không nên duy trì
Cùng với sự phát triển của xãhội, y học, trên thế giới từ lâu đã tách việc khám chữa bệnh và bán thuốc thànhhai nơi riêng biệt nhằm chống chủ quan gây nhầm lẫn, tránh nhiều điều không hay(như ép người bệnh dùng nhiều thuốc, lấy giá cao…). Bộ Y tế nước ta quy định:phòng khám tư không được bán thuốc, nhà thuốc phải bán thuốc theo đơn. Giám đốcbệnh viện có chức năng điều hành việc khám chữa bệnh.
Sau đó, Bộ Y tế giao thêm chogiám đốc chức năng chịu trách nhiệm nhà thuốc BV. Như thế là không tách biệttheo tập quán quốc tế. Nếu muốn nhà thuốc có doanh số cao, có lãi, cải thiện đờisống (thậm chí có vụ lợi) thì giám đốc và nhân viên dưới quyền sẽ phân tâm,không tập trung cho khám chữa bệnh, rất có thể làm chưa đúng các điều luật vềcung ứng thuốc.
Do không tách bạch như vậy nênnhà thuốc BV có một số thiếu sót kinh niên như: tìm cách buộc người bệnh nội trúmua thêm thuốc, tìm cách tăng giá thuốc lên cao hơn giá thị trường: Bộ Y tế cóquy định thặng số bán lẻ cho nhà thuốc BV (từ 5-20% so với giá mua, tùy loại)nhưng nhà thuốc có thể tự do liên kết tạo nguồn (không cần đấu thầu) nên có thểthông đồng với nơi bán sỉ, nhập vào với giá cao (để hưởng hoa hồng).
Nếu chỉ kiểm tra hóa đơn mua vào- bán ra riêng của nhà thuốc thì không phát hiện được vi phạm về quy định thặngsố bán lẻ. Nhưng nếu đem so sánh mới thấy giá bán lẻ của nhà thuốc BV cao hơngiá thị trường. Có nhà thuốc chẳng cần làm “thủ thuật” này, cứ mặc nhiên bán giácao, không cấp hóa đơn, người bệnh vẫn phải mua (vì áp lực của nhân viên y tế từbuồng bệnh).
Dù con số công bố thấp hơn củacác báo chí, thanh tra Bộ Y tế cũng cho biết giá bán lẻ tại một số nhà thuốc BVcao hơn giá thị trường khoảng 20% (kiểm tra tháng 8-2008), 13% (kiểm tra tháng4-2010). Ngoài ra, còn có các thủ thuật như kê đơn không đúng quy chế, kê đơnngoài danh mục, kê đơn quá nhiều loại thuốc…
Nếu BV giao cho công ty dược làmnhà thuốc BV cũng vậy. Công ty dược phải đấu thầu hay thương lượng để có điểmbán. Giá này bao gồm cả nhà cửa, vị trí đắc địa nên rất cao. Để có đủ tiền chi,công ty dược khoán cho nhân viên bán thuốc doanh số cao. Nhân viên bán móc nốivới nhân viên y tế…
BV dùng đất, nhà, phương tiện,lương nhân viên bằng ngân sách nhà nước để làm nhà thuốc BV, không tính hoàn trảcho ngân sách, thế nhưng giá thuốc lại đắt. Như vậy là không phân minh giữa công- tư - tập thể.
Đến thời điểm này, duy trì loạihình nhà thuốc BV trong khuôn viên BV là không phù hợp.
|
Theo Hà Thuỷ Phước