Năm 2001 ông bị bạo bệnh, cùng lúc cả tai biến cả tiểu đường cả cao huyết áp, bệnh nào cũng hết cấp. Bác sĩ bảo gia đình về xem giờ, đặng rút ống ôxy cho ông đi. Ban tang lễ gấp rút thành lập. Cái tràng kỉ và bộ xa lông ở phòng khách đem sang gởi hàng xóm. Tờ cáo phó đã viết xong...Mọi thứ cho giây phút vĩnh biệt ông đã sẵn sàng. Nhưng ông thầy chùa ở gần Ngã Tư Sở bảo người này sinh giờ tuất ngày tuất tháng tuất năm tuất, số trời chưa thể hết. Thế rồi ông tỉnh lại thật, tất nhiên là nhờ thầy thuốc chứ không phải thầy chùa, nhưng công lao thầy chùa không ai dám bảo rằng nhỏ! Đêm khuya hai anh em đồng hao ngồi bên ấm trà ông tỉ mẩn pha sao cho thật ngon, hét ầm ầm vào tai nhau - ông anh bảo Mác nói thế này ông em bảo Paul Samuelson (1) nói thế kia, ông em bảo Adam Smith (2) nói thế kia ông anh bảo Lenin nói thế này...khiến bà hàng xóm tưởng xảy ra chuyện cãi vã nhau chạy sang căn ngăn!

Vợ tôi còn thân với anh Quân, có lẽ do sàn sàn tuổi nhau. Anh Quân thứ tư, cùng tuổi với tôi. Chị Lợi vợ anh lại cùng tuổi với vợ tôi. Nhưng tuổi tác năm tháng chỉ mới là điều kiện. Hễ biết tôi ra, thể nào anh Quân chị Lợi cũng bảo tới nhà ăn cơm. Nhưng giời ạ, nói là một bữa chứ đâu chỉ một bữa. Trưa ăn miến nấu cá rô, chiều xơi bún ốc hũ, tối xem đá bóng ăn đồ nguội uống uyxki.

Đãi khách, chị Lợi thường chỉ nấu một món, nhưng nấu tài nấu khéo, món nào ra món ấy. Ngay cái bún ốc hũ giờ không còn mấy người biết nấu, tôi cầm đũa gắp con ốc béo nhẫy chấm vào chén dấm bỗng mà tự dưng lòng mình cứ rưng rưng, cứ hoài niệm, cứ tiếc nuối một món quà sắp mất, những tháng ngày đã mất! Bữa ăn thường có thêm người đàn ông thứ ba là Hà mập, con rể quý hóa giỏi kiếm tiền, giỏi chiều chuộng bố mẹ vợ lại giỏi nịnh mẹ vợ. Hễ bố vợ nhấc điện thoại gọi là Hà mập đánh xe ô tô tới liền. Sức uống không mấy nhưng bố cạn ly thì con nhấp môi! Lại cứ gắp một miếng thì mở miệng khen một tiếng. "Ngon quá bố ơi". Ông bố vợ tưởng ông con rể nói với mình, kỳ thực nó hướng tới bà mẹ vợ trong bếp!

Trời sinh ra chị Lợi để nấu ăn ngon. Trời sinh ra anh Quân để...dễ thương. Có những người không một chút cố gắng nhưng ngay lập tức chinh phục những người xung quanh, khiến họ mến mình. Anh Quân là một người như thế. Ông cụ vợ tôi đã ngoài chín mươi, ở với ông anh cả, nhưng tắm thì một mực phải đợi anh Quân tới! Riêng tôi, tôi quý ông anh vợ - ông thiếu tá trưởng phòng vận tải sư đoàn thức thời quay về đời sống dân sự ngay sau khi chiến tranh kết thúc, không hẳn do tính tình. Tôi nghĩ anh Quân ít nhiều là người biết sống, tức biết làm cho cuộc sống nhẹ nhõm trong vô số hoàn cảnh khác nhau. Đã không tranh giành gì với ai, lại biết cách cho không ai tranh giành gì với mình, hỏi có mấy người? Nhiều lúc tôi nghĩ ông anh vợ mình chọn nhầm nghề, chứ giá như ông đứng trên bục giảng kinh thuyết pháp, phật tử hẳn sẽ đông lắm! Lại nghĩ ông này đi tán gái, mười cô chắc "chết" cả mười! Nhưng nghĩ linh tinh thế thôi chứ anh Quân ít nói, lại không có tài ăn nói. Hình như cái sức cảm hóa của anh là do trời cho, nó cứ tự nhiên thấm đẫm trong anh! Hình như người ta quý anh là do sự chân thành của anh.

Nói thì nói vậy chứ cả chín anh chị em nhà vợ tôi đều quý mến nhau. Chín người thì tám ở Hà Nội, chỉ mình vợ tôi theo tôi vào Nam. Chín người thì tám người giống tính ông cụ bà cụ hiền lành điềm đạm, chỉ mình vợ tôi dữ như cọp (tất nhiên là chỉ với tôi, như hầu hết các bà vợ đối với chồng!). Nói chuyện với bà chị qua điện thoại bàn chuyện góp tiền giúp chú em đang gặp khó khăn, vợ tôi hét: "Có làm từ thiện thì làm từ thiện trong nhà trước đã!". Thông điệp của vợ tôi thấu tình đạt lý, nhưng cái cách diễn đạt phải bình tĩnh lắm mới tiếp thu nổi! Ngày còn sống bà cụ vợ tôi cũng chỉ quanh quẩn nội trợ, một mình ông cụ xoay sở kiếm tiền nuôi đủ mười một miệng ăn. Thời gian ông cụ giữ chức giám đốc sở của một tỉnh trung du mọi việc không đến nỗi khó khăn lắm. Nhưng khi gia đình về lại Hà Nội, cảnh túng quẫn ngày một rõ dần. Điều an ủi duy nhất là thời đó không ai không đói không thiếu. Nhưng tại sao ông cụ vợ tôi quyết định về lại Hà Nội, đổi chức giám đốc sở nhiều người mơ ước lấy cái ghế chuyên viên cao cấp của Bộ? Bên cạnh một số lý do tương đối rõ thì tôi có cảm giác còn điều gì đó cụ chưa nói ra!

Ngày ấy gia đình vợ tôi ở phố Mai Hắc Đế. Ngôi nhà của một chủ được chia cho non chục gia đình. Ba chục mét vuông - anh chị em vợ tôi lớn lên trong cái diện tích chật chội ấy. Không phải lúc nào cũng chín anh chị em. Ví như khi cậu út Chính ra đời thì ông anh cả và anh Quân vào bộ đội, mũi tên hòn đạn chiến trường. Sau này cả hai cậu em của vợ tôi cũng mặc áo lính. Rồi vợ tôi đi học nước ngoài. Rồi hai cậu em đi xuất khẩu lao động. Nhưng bớt người này thì thêm người kia - thêm dâu thêm rể, thêm cháu nội cháu ngoại. Gia đình vợ tôi lúc đó giống hệt một cái tổ chim. Cái tổ chim bé tí xíu, đàn chim non thì đông, nếu chim mẹ không khéo léo không cảnh giác rất có thể một chú chim nào đó sẽ ra khỏi vòng kiểm soát, lộn cổ như chơi.

Hà Nội không thiếu những cám dỗ. Hà Nội luôn nhan nhản những đứa trẻ hư. Thời ấy chưa có thuốc lắc nhưng không hiếm những đứa móc túi ăn cắp vặt, trốn học đàn đúm. Chim bố tất nhiên miệt mài kiếm sao cho đủ cái ăn. Nhưng cố đến kiệt sức mà nào cung cấp đủ cho đàn chim đông đúc. Vậy là như rất đông các gia đình công nhân viên chức thưở ấy, bọn trẻ lĩnh hộp về dán - hộp phấn hộp bánh kẹo hộp mứt, tùy thời. Vậy là bà cụ và vợ tôi lao vào đan len. Vợ tôi, con bé láu cá ỷ mình là chị chuyên đùn việc cho các em, tay đan mắt dán vào vở học bài, hễ ngủ gật thì bà cụ cốc cho một cái. Sáng ra đứa dậy muộn nhất phải lau nhà - nước xách từng xô từ dưới lên, lại chỉ lau khi mọi người đã lên giường, nên chưa đầy năm giờ sáng đã í ới tiếng trẻ con cãi nhau xem ai dậy trước!...

Cuối tuần cả nhà họp, ông cụ vợ tôi đóng vai quan tòa, bà cụ tường thuật chi tiết thành tích, khuyết điểm của từng cô cậu. Ai đứng nhất tuần - nghĩa là vừa học giỏi vừa chăm việc nhà, được khen thưởng. Ông cụ không bao giờ thưởng quà, tiền lại càng không. Phần thưởng là một suất xem phim ở rạp cùng cụ. Có một chuyện tôi chứng kiến và nhớ mãi khi tôi đã là rể của ông cụ bà cụ. Hôm ấy bà, chú út Chính và tôi cùng xem một bộ phim nào đấy trên tivi. Tôi khen phim hay, bà cụ gật gù đồng tình với tôi. Chú Chính buột miệng bảo bà có hiểu không mà khen hay? Bà cụ mắng chú Chính hỗn, bắt nằm úp mặt trên giường đánh cho năm roi. Năm roi của bà cụ nhẹ tựa lông hồng, nhưng đấy là năm roi dành cho ông con đã có vợ có con hẳn hoi! Chú Chính nằm im, bé Vân con chú Chính cô Oanh úp mặt vào lòng mẹ. Tôi nghĩ năm roi của bà cụ không chỉ và không hẳn dành cho chú Chính!

Dịp thanh minh vừa rồi tôi cùng các anh chị em vợ về quê. Cả nhà thuê một chiếc xe ô tô lớn, lăn bánh đến sát nhà thờ. Tôi vốn rất ngưỡng mộ các làng quê đồng bằng Bắc Bộ - con đường làng lát gạch đỏ, cái ao có bầy vịt thung thăng, cái đình làng trầm mặc, một vài khóm tre ngẫm ngợi, một không gian thoáng đãng yên tĩnh, người làng từ các ông các bà đến mấy đứa trẻ con hễ gặp mình thể nào cũng cất tiếng chào dù chả quen biết gì nhau. Nhà thờ gia đình vợ tôi tọa lạc trên một mảnh đất rộng, toàn bộ diện tích đã được lát gạch đỏ làm thành một cái sân lớn khiến mình trở nên bé nhỏ.

Phía trước là một cái ao tương xứng với cái sân, đủ lớn để hơi nước mát rượi theo ngọn gió bay lên. Ngôi nhà thờ này gia đình vừa chuộc lại. Đằng đẵng năm tháng, vật đổi sao dời bèo dạt mây trôi, chủ thì đã bao lần kẻ đến người đi, nhưng đất vẫn còn đấy, nhà thờ vẫn còn đấy. Nghe nói nhà nào sống trên đất nhà thờ không đau ốm cũng bệnh tật. Nghe nói có ai tắt mắt lấy thứ gì của nhà thờ đêm về các cụ báo mộng bảo phải trả lại - người lấy không chỉ một, hai nhưng báo mộng thì chỉ thông qua một người, chính xác lấy cái gì lấy lúc nào nên người ta sợ lắm! Thế rồi toàn bộ nhà thờ được hoàn nguyên cho chủ cũ. Ngày ông anh cả vợ tôi - một đại tá về hưu chín chắn luôn luôn đúng trong mọi quyết định, đứng ra chuộc lại rồi anh chị em góp tiền trùng tu, nhà thờ vẫn còn khá nguyên vẹn. Ba chữ "Phụng tiên đường" và đôi câu đối "Lê tộc quý tôn vạn đại trường tồn danh kế thế/ Tổ đường vọng bái thiên niên hằng tại đức lưu quang" sơn son thếp vàng vẫn rực rỡ tỏa sáng.

Ở ngoài sân, các dòng chữ "Phụng tiên tư hiếu", "Hậu tất hưng" tuy có mờ đi đôi chút nhưng vẫn còn khá rõ. Lần đầu tiên trong đời tôi đối diện với một ngôi nhà thờ không rồng phượng, không những mái đao cong vút - một ngôi nhà thờ thuần Việt vừa dung dị vừa uy nghi, vừa cao xa vừa gần gũi. Tôi có cảm giác như đang đối diện với một câu chuyện cổ tích, chính xác là tôi đáng đứng trước một ông tiên hiền từ bao dung với những đứa trẻ ngoan và nghiêm nghị với những đứa trẻ hư! Hậu tất hưng?

Tôi liếc nhìn cháu Giang con ông anh cả vừa ở Pháp về đang đứng cạnh chị nó là cháu Trà - con bé Trà giống mẹ mà tôi rất mực quý mến, luôn thấy ở nó hình mẫu của một người phụ nữ hoàn thiện hoàn mỹ, vừa xinh đẹp vừa dịu dàng đằm thắm nết na. Tôi liếc nhìn cháu Huyền con cậu Minh ở Tokyo về - con bé Huyền mảnh khảnh vượt qua cả nghìn đứa nhận học bổng bằng tiền yên chứ lương trưởng phòng kỹ thuật Công ty thông tin tín hiệu của bố Minh thì nó may lắm đủ ăn! Tôi mường tượng cháu Sơn con anh Quân chị Lợi đang ở Hà Lan thỉnh thoảng sang chơi với chị Thu nó ở Đức. Tôi nheo mắt nhìn cháu Phượng con bà chị vợ, thân gái chẳng cầu cạnh nhờ vả ai, phỏng vẫn chỗ nào trúng chỗ đó. Tôi hình dung cháu Thủy con ông anh thứ ba đang vững vàng ở Sài Gòn. Và còn các cháu con chú Vinh, chú Chính...mỗi đứa một thân phận nhưng đều ngoan và khá...Các cháu của tôi không dám so sánh với ai, nhưng tôi xin thắp nén hương chân thành biết ơn các bậc tiền hiền của dòng họ.

Sau khi đã xong việc hương khói ở nhà thờ và ở mộ, chúng tôi hưởng lộc các cụ. Gà luộc, xôi vò, cơm nắm muối vừng, giò lụa, chả quế...chị Lợi nấu nướng sắm sửa hơi nhiều, có lẽ một mặt tuân thủ lời dạy "mâm cao cỗ đầy" dâng lên các cụ tỏ lòng thành, mặt khác lo chúng tôi đói. Thanh minh - lòng người thanh thản, đất trời hiền hòa. Chai uyxki ông anh cả mang theo ngon tuyệt, qua vài lần rót đã cạn. Tiếng nói chuyện, tiếng cười đùa trêu chọc nhau ồn ào. Vợ tôi bỗng hỏi "Này, đêm tân hôn anh Quân chị Lợi làm gẫy giường, nhớ không?".

Một câu hỏi bất ngờ, nhưng chỉ sau mấy giây mọi người đã phá lên cười, nghiêng ngả, quặn ruột, giàn dụa nước mắt! Thấm thoát thế mà đã gần bốn mươi năm. Ngày ấy phải cưới nhau mới có cái phiếu mua giường. Giường đóng bằng gỗ tạp, mộng mị lỏng lẻo như răng bà lão. Anh Quân cẩn thận gia cố bằng mấy cái đinh năm phân. Nhưng vừa bật quạt tắt đèn, cả nhà chưa kịp ai ngủ thì nghe rắc rắc, rồi đánh sầm một cái. Tiếng động trong đêm khuya khuyếch đại, nghe như tiếng nổ của bom mìn...Nhìn chị Lợi đang đỏ mặt, tôi tiếp sức cho vợ tôi "Này, lúc ấy chị thế nào?". "Sợ hết hồn chứ gì nữa!" - Chị Lợi trả lời tôi. Rồi chị Lợi nói tiếp "Sợ...là sợ bật đèn...". Tôi hỏi thế có ai bật đèn không? Chị Lợi bảo kỳ lạ, kỳ lạ tới mức không hình dung nổi. Tình huống xảy ra quá đột ngột, bất thường, nhà đầy người nhưng không những không ai bật đèn mà tất cả im ắng, cứ như mọi người đang ngủ say lắm!...

Bốn mươi năm, già nửa đời người, tiếng cười để dành chừng ấy năm mới bật ra, hỏi sao không giàn dụa nước mắt? Nhìn những mái tóc đã bạc trên đầu các ông anh bà chị và cả của các chú em, tôi kinh hãi cho cái nếp nhà mà ông cụ bà cụ vợ tôi đã gầy dựng cho con cái mình!

Theo Hoài