Tính đến hết quý 2/2011, một loạt các ngân hàng lớn như Vietcombank, Vietinbank,ACB, Eximbank, Sacombank và Techcombank đều đạt tăng trưởng lợi nhuận như kỳvọng. Trái ngược với diễn biến trên, đa số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bịlỗ hoặc giảm lãi đáng kể do khó khăn cả đầu ra lẫn đầu vào. Lợi nhuận của cácngân hàng thương mại có thực sự cao và bền vững?
Theomột nghiên cứu của IMF năm 2009, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)trung bình của các ngân hàng thương mại trên thế giới trong giai đoạn 2003 –2008 hầu hết dưới 20%/năm, trừ các ngân hàng ở Indonesia. Nghiên cứu này khôngbao gồm các ngân hàng thương mại (NHTM) của Việt Nam.
Tìm hiểu của chúng tôi về lợi nhuận của các NHTM của Việt Nam cho thấy, ROE củahầu hết các NHTM niêm yết đều dưới 20% trong năm 2010. Cụ thể, ngoại trừ VCB,ACB và CTG có ROE lần lượt đạt 20,39%, 20,52%, và 18,74% thì các ngân hàng niêmyết khác chỉ đạt ROE ở mức dưới 15% như EIB đạt 13,43%, HBB đạt 13,48%, STB đạt13,35%, và SHB đạt 11,81%. Điều này cho thấy các NHTM của Việt Nam đạt được mứclợi nhuận trung bình so với các NHTM trên thế giới trong giai đoạn nền kinh tếổn định.
Trần lãi suất và bất ổn tỷ giá giúp NHTM
Trong năm 2011, các NHTM của Việt Nam hầu hết đều duy trì kế hoạch lợi nhuậntương tự năm 2010. Kết quả kinh doanh sáu tháng đầu năm của các NHTM cho thấy đasố đều hoàn thành trên 50% kế hoạch
Điều này cho thấy tỷ suất lợi nhuận của cácNHTM Việt Nam không hề giảm trong giai đoạn nền kinh tế khó khăn do Chính phủthắt chặt tiền tệ. Đây là điều khác thường so với hoạt động của các NHTM trênthế giới. Chẳng hạn, khi FED thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ vào năm 2007và 2008, ROE trung bình của các NHTM của Mỹ đã giảm từ mức 12,3% xuống mức 7,8%và 3,3%.
NHTM Việt Nam duy trì được lợi nhuận trong sáu tháng đầu năm nay chủ yếu là dosự chênh lệch rất lớn giữa lãi suất huy động và cho vay. Trần lãi suất huy động14% khiến chi phí huy động của NHTM trên thực tế được giảm. Thay vì phải huyđộng toàn bộ các khoản vốn với lãi suất cao, tới 17- 18%, thì chỉ có nhữngkhách hàng gửi lượng tiền lớn và có khả năng đàm phán mới nhận được lãi suấtvượt trần. Trong khi đó, các doanh nghiệp vẫn phải vay vốn với lãi suất cao lêntới 22 - 25%.
Kinh doanh ngoại tệ cũng góp phần giúp ngân hàng thương mại kiếm lợi do biếnđộng tỷ giá lớn trong sáu tháng đầu năm 2011. Tỷ giá USD/VND tăng nhanh trongquý 1/2011 rồi giảm dần về mức ổn định 20.600 đồng do các chính sách điều hànhtỷ giá tương đối hiệu quả của ngân hàng Nhà nước trong thời gian vừa qua.
![]() |
Với sự ràng buộc lẫn nhau trong quan hệ tín dụng nên nếu các doanh nghiệp tiếp tục bị thua lỗ thì chính các NHTM cũng sẽ gặp khó (Ảnh minh hoạ: Lê Quang Nhật) |
Sự sôiđộng của thị trường này giúp nhiều NHTM có được lợi nhuận lớn nhờ làm trung gianvới lợi thế là người chào giá. Trên thực tế Vietinbank có được lợi nhuận từ kinhdoanh ngoại tệ sáu tháng đầu năm 2011 là 266 tỉ đồng, tăng vọt so với mức 24 tỉđồng cùng kỳ năm ngoái, Vietcombank đạt 622 tỉ đồng tăng gấp ba lần năm 2010.
Doanh nghiệp gặp khó khăn từ nhiều phía
Tăng trưởng GDP sáu tháng đầu năm 2011 của Việt Nam chậm lại đã nói lên một phầnkhó khăn của các doanh nghiệp. GDP chỉ tăng 5,57%, thấp hơn so với mức 6,18% củacùng kỳ năm 2010. Thông tin gần đây về các doanh nghiệp khó khăn và thua lỗ đangxuất hiện ngày một nhiều hơn. Trong lĩnh vực chứng khoán, theo đánh giá sơ bộtình hình sáu tháng đầu năm 2011 của uỷ ban Chứng khoán, 61/105 công ty chứngkhoán đang chịu lỗ luỹ kế và 27/47 công ty quản lý quỹ chịu lỗ.
Trong lĩnh vựcxây dựng và các ngành liên quan đến xây dựng, các tập đoàn xây dựng lớn như tổngcông ty Sông Đà, tập đoàn HUD đều đang gặp khó khăn lớn trong triển khai sảnxuất ximăng. Các công ty thuộc tập đoàn ximăng Việt Nam Vicem chỉ đạt lợi nhuận2 - 3% trên vốn điều lệ trong sáu tháng đầu năm.
Các doanh nghiệp kinh doanhthép đang tồn kho cao và có nhiều khả năng thua lỗ khi giá thép giảm trong khilĩnh vực bất động sản có thể bị đóng băng. Trong lĩnh vực vận tải biển, cácdoanh nghiệp vận tải lớn như Vosco, Vitaco, Vipco, PV Trans… hiện cũng chỉ lãitừ vài tỉ đến vài chục tỉ trên vốn điều lệ cả ngàn tỉ đồng.
Doanh nghiệp gặp khó khăn như hiện nay do rất nhiều nguyên nhân. Chính sách kinhtế thay đổi và chuyển hướng đột ngột khiến cho doanh nghiệp không thể đưa ranhững quyết định đầu tư phù hợp. Tổng cầu của nền kinh tế sụt giảm do tín dụngthắt chặt khiến vòng quay vốn bị chậm, lượng hàng tồn kho tăng cao làm tăng nhucầu đi vay tài trợ vốn. Lãi suất tăng cao cũng ảnh hưởng lớn đến các doanhnghiệp. Nhiều doanh nghiệp vay ngoại tệ còn chịu biến động lớn từ tỷ giá.
Rủi ro hệ thống đang lớn dần
Với sự ràng buộc lẫn nhau trong quan hệ tín dụng nên nếu các doanh nghiệp tiếptục bị thua lỗ thì chính các NHTM cũng sẽ gặp khó. Khi kinh doanh thua lỗ, doanhnghiệp sẽ không thể trả gốc cũng như lãi cho NHTM đúng hạn, tạo ra các khoản nợxấu cho các NHTM. Chi phí trích lập dự phòng của các NHTM có thể tăng mạnh lênkhiến cho lợi nhuận ngân hàng trong thời gian tới cũng có thể bị ảnh hưởng lớn.
Theo số liệu của ngân hàng Nhà nước, nợ xấu và nợ quá hạn đang có xu hướng tănglên. Tính đến ngày 10.6.2011, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng đã tănglên mức 2,72% trong tổng dư nợ từ mức 2,17% trước đó.
Còn tính cho bảy tháng,tại TP.HCM, nợ xấu và nợ quá hạn đã chiếm tới 4,39% tổng dư nợ. Mức độ trích lậpdự phòng đối với các khoản nợ của các NHTM vì thế có xu hướng tăng lên khi cáckhoản nợ đủ tiêu chuẩn lần lượt chuyển dần sang các nhóm nợ cần chú ý, nợ dướitiêu chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn.
Hiện tại, diễn biến trên thị trường vẫn chưa thực sự sáng sủa. Lãi suất có dấuhiệu tăng trở lại vì CPI tháng 7 tiếp tục duy trì ở mức cao 1,17% so với tháng6. Tiêu dùng người dân thắt chặt khiến hàng tồn kho của các doanh nghiệp tănglên. Điều này đồng nghĩa các doanh nghiệp Việt Nam sẽ ngày càng khó khăn hơn vàhệ thống các NHTM sẽ gặp những rủi ro lớn hơn trong giai đoạn sáu tháng cuối năm2011.
Theo NguyênMinh Cường
Sài Gòn tiếp thị