
Chồng tôi mất cách đây gần 6 năm vì bạo bệnh. Khi ấy, tôi mới ngoài 50 tuổi, vẫn còn công việc ổn định ở cơ quan nhà nước. Thời gian đó, mất mát quá lớn khiến tôi gần như sụp đổ, nhưng vì con cái tôi buộc phải đứng dậy, tự nhủ phải mạnh mẽ. Tôi sống một mình trong căn nhà cấp bốn rộng rãi ở quê nơi hai vợ chồng từng vun vén suốt hơn 30 năm. Căn nhà nhỏ nhưng đầy ắp kỷ niệm, từ cái bậc thềm gạch mẻ cho đến cây bưởi già ông trồng trước sân.
Con trai tôi học đại học rồi lập nghiệp ở thành phố lớn. Sau khi lấy vợ, nó mua được căn chung cư hai phòng ngủ nhờ tích góp và vay thêm ngân hàng. Mấy năm đầu, vợ chồng nó còn hay về quê thăm tôi. Nhưng từ khi có con nhỏ, tần suất giảm dần. Cuộc sống thành thị cuốn nó đi, tôi hiểu, không trách gì.
Sau khi nghỉ hưu, sống một mình ngày càng trống trải. Tuổi già đến nhanh hơn khi không còn việc để làm, không còn ai để bầu bạn mỗi sớm chiều. Tôi bị cao huyết áp, đau khớp gối, mấy lần đi viện một mình mà nước mắt cứ rơi. Lúc ấy tôi nghĩ: thôi thì lên thành phố ở với con, có cháu, có người trò chuyện, tiện chăm sóc lẫn nhau. Tôi rao bán căn nhà ở quê. Dù không được giá cao, nhưng cũng đủ cho tôi một khoản dưỡng già. Tôi gọi cho con trai, nó mừng rỡ: “Mẹ lên ở với vợ chồng con cho vui, chứ sống một mình mãi sao được.” Tôi nghe mà ấm lòng.

Thế nhưng chỉ sau 2 tháng, tôi bắt đầu thấy mình như người dưng trong chính nhà con. Lên thành phố, tôi ở trong căn hộ chỉ hơn 70 mét vuông, 2 phòng ngủ một phòng cho vợ chồng nó, một phòng cho đứa cháu nhỏ. Tôi không có phòng riêng. Tôi ngủ tạm trên chiếc đệm gấp trong phòng khách, mỗi sáng phải dọn gọn lại vì con dâu còn tập yoga. Vấn đề không chỉ ở chỗ ăn ở chật chội, mà là cảm giác mình không có chỗ đứng. Con dâu tôi không hằn học, không hỗn láo, nhưng luôn giữ thái độ xa cách. Mỗi lần tôi góp ý cách chăm con, cách nấu nướng, nó đều cười trừ rồi làm theo ý mình. Có lần, thấy cháu ho suốt đêm, tôi bày cách dân gian như xông lá, nó bảo: “Dạ, mẹ cứ để con cho uống thuốc bác sĩ kê, con ngại mấy cách dân gian lắm ạ.” Tôi đành im lặng.
Cơm nước trong nhà, tôi làm hết. Từ sáng sớm nấu cháo cho cháu, đến tối dọn rửa, giặt giũ. Nhưng có vẻ sự hiện diện của tôi không khiến ai thấy thuận tiệnhơn, mà đôi khi còn là phiền toái. Tôi nghe được con dâu gọi điện cho bạn, nói vu vơ: “Có người già trong nhà cũng mệt thật chị ạ, chẳng còn không gian riêng.” Tôi nghe mà nghẹn lòng. Tôi từng nghĩ mình sẽ được san sẻ, được trò chuyện, được gần cháu nhưng rốt cuộc, tôi chỉ là cái bóng âm thầm trong một căn hộ chật chội, chen lấn cả về vật lý lẫn cảm xúc. Cả con trai tôi cũng dần thay đổi. Nó không còn hỏi tôi: “Mẹ quen chưa?”, “Mẹ thích ăn gì?”. Những buổi tối, nó và vợ đóng cửa phòng xem phim, còn tôi ngồi ngoài phòng khách, chẳng biết làm gì ngoài ôm điện thoại lướt mạng cho qua ngày.
Tôi nhớ quê nhà da diết. Nhớ cây bưởi trước sân, nhớ con ngõ nhỏ nơi hàng xóm hỏi han nhau mỗi chiều, nhớ cả cái giường gỗ cũ có tiếng cọt kẹt mỗi khi trở mình. Tôi từng bán đi tất cả với niềm tin rằng “lên sống cùng con là yên ổn” mà giờ mỗi tối tôi nằm co ro bên cạnh cái tủ giày, nghe tiếng xe ngoài đường mà nước mắt cứ lặng lẽ chảy. Tôi không trách con, cũng không trách con dâu. Mỗi thế hệ một cách sống, có lẽ tôi là người sai khi tự huyễn hoặc mình rằng “ở gần con là hạnh phúc”. Hóa ra, gần không bằng thấu hiểu và ở chung không đồng nghĩa với sum vầy.
Tôi đang tính sẽ tìm một căn trọ nhỏ, hoặc một căn hộ thuê rẻ ở ngoại ô. Có thể không rộng rãi, không tiện nghi, nhưng ít nhất đó là không gian của riêng tôi. Để tôi được sống đúng tuổi già của mình lặng lẽ, bình an, không phải dè chừng từng câu nói, từng bước đi trong nhà con. Tôi ân hận nhưng không phải vì thương con, mà vì đã đánh đổi sự bình yên cuối đời chỉ để mua lấy cảm giác được gần con đầy ảo tưởng.

Theo Thương Trường