Nghịch lý chỉ đạo
![]() |
Luật sư Trương Thanh Đức: “Phải bỏ lãi suất cơ bản. Nhưng đó là câu chuyện của Quốc hội, vì nó bị chốt trong 10 điều của 5 đạo luật do Quốc hội ban hành” |
- Theo ông,nghịch lý nào sẽ là “nghịch lý của nghịch lý”?
Theo tôi, đó chính là lãi suất cơ bản. Từ giữanăm 2009 đến hết quý I/2010, lãi suất huy động của các ngân hàng liên tụctăng lên, nhiều khi tới mức xấp xỉ 12%/năm, còn lãi suất cho vay thì vượt xacon số 12%/năm.
Nghịch lý là ở chỗ, các ngân hàng nhất loạt công bố lãi suấthuy động chỉ xoay quanh con số 10,49%/năm và lãi suất cho vay không quá 12%/nămđể cho khỏi trái với chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Trên thực tế,khi huy động thì phải cố gắng phát huy hết các “bài vở” để có thể “mua” đượcvốn. Còn lúc cho vay thì phải ra sức vận dụng mọi mưu mẹo để “bán” khỏi lỗ.
Dù niêm yết lãi suất huy động bắt buộc không quá10,5%/năm theo đúng cảnh báo, nhưng thực chất thì lại vượt xa mức đó, bằngnhững thỏa thuận riêng hoặc trả thêm lãi suất dưới đủ mọi hình thức khuyếnmại. Các ngân hàng đành niêm yết một mức lãi suất huy động chung cho mọi kỳhạn khác nhau, từ một vài tuần cho đến một vài năm. Đó là một nghịch lý vàtrên thực tế, gần như không có người gửi tiền loại kỳ hạn trên 6 tháng.
- Nhưng ông cũng biết, điều đó là trái luật?
Đúng thế. Nhưng các ngân hàng thừa biết điều đó.Vì thế, lãi suất huy động và cho vay, sau một thời kỳ “ngụy trang” lộ liễu,đã được chỉ đạo công khai đương đầu với sự thật. Các ngân hàng được cho vaytheo lãi suất thỏa thuận đối với mọi dự án, phương án vay vốn “có hiệu quả”.
Mà đương nhiên đối với ngân hàng, tất cả nhữnghồ sơ nào được cho vay thì đều được đánh giá là có hiệu quả. Không một ailại tuyên bố cho vay những phương án không có hiệu quả.
Như vậy, có thể nóicác ngân hàng đã hoàn toàn được tự do cho vay vượt trần 150% lãi suất cơ bản.Điều này là ngược với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 và cũng chẳngkhớp với Nghị quyết của Quốc hội vào cuối năm 2008. Đây là một cú vượt ràongoạn mục của lãi suất cho vay, là một tỷ lệ trái luật, nhưng lại là sự cầnthiết và mang tính tất yếu để thoát khỏi nghịch lý lãi suất.
Nghịch lý thị trường
- “Cú vượt rào” đó đã đủ giúp các ngân hàng vượtqua nghịch lý lãi suất chưa, thưa ông?
Không hẳn vậy. Sau khi thị trường lãi suất khôngcòn bị méo mó do sự chỉ đạo hành chính, thì lại diễn ra những nghịch lý khác.Đó là tình trạng lãi suất cho vay giảm xuống tương đối nhiều, nhưng lãi suấthuy động lại hầu như không giảm theo, mà thậm chí còn tăng lên. Một số ngânhàng đã tăng lãi suất huy động lên sát 12%/năm.
Và một lần nữa, lại xuất hiện tình trạng niêmyết chung một mức lãi suất đối với một loạt kỳ hạn huy động khác nhau, thậmchí lãi suất tiền gửi dài hạn lại thấp hơn cả lãi suất tiền gửi ngắn hạn. Vídụ, gần đây một số ngân hàng như Maritime Bank và Techcombank công bố lãisuất huy động kỳ hạn 12 tháng cũng lại bằng đúng kỳ hạn 3 tháng và lãi suấtkỳ hạn 36 tháng lại thấp hơn loại 3 tháng.
![]() |
- Vậy ông có thểlý giải nguyên nhân?
Theo tôi, nghịch lý này có phần xuất phát từ3 nguyên nhân sau:
Thứ nhất, ngân hàng nào cũng sợ bị “cướp” mấtkhách hàng gửi tiền. Mất khách hàng vay vốn không đáng ngại lắm và không mấtnhiều chi phí để có thể tái lập. Nhưng mất khách hàng gửi tiền, nhất làkhách hàng là các tổ chức kinh tế, thì bị xem như là nguy cơ bỏ mất “trậnđịa” thị trường huy động, sẽ phải trả giá đắt để khôi phục.
Thứ hai, do tỷ lệ lạm phát tăng cao mấy năm gầnđây, làm cho khách hàng chưa yên tâm gửi tiền vào ngân hàng với kỳ hạn tínhbằng năm, mà vẫn tiếp tục gửi theo từng tháng. Nhất là sau khi Chính phủđiều chỉnh chỉ tiêu lạm phát năm nay từ 7% lên 8%, thì người gửi tiền càngmuốn “lướt sóng”.
Quan điểm tuyệt đối hóa việc vận hành thị trườngtheo lãi suất thực dương tại mọi thời điểm cũng là một trong những nguyênnhân dẫn đến nghịch lý: Bỏ vốn sản xuất, kinh doanh không có lời bằng mangtiền gửi nhà băng. Lãi suất tiết kiệm lên tới gần 12%/năm, trong khi lợi tứccủa nhiều doanh nghiệp cũng như của chính một số ngân hàng chỉ trên dưới10%/năm. Vì vậy, nguồn vốn của các tổ chức kinh tế và dân cư, thay vì chảythẳng vào nhà máy, công trường, thì lại đổ hết vào kho két ngân hàng.
Thứ ba, các ngân hàng phòng xa nguy cơ thanhkhoản, cho nên dù dư nợ tăng không đáng kể, dù không thiếu vốn, nhưng vẫn“tích cốc phòng cơ”. Bởi nỗi khiếp đảm suýt mất khả năng thanh toán trongtoàn hệ thống từ năm 2008 vẫn như còn rình rập các ngân hàng.
Đặc biệt, việc cảnh báo úp mở do NHNN phát ra vềcon số huy động vốn từ thị trường liên ngân hàng không được quá 20% đã làmcho nhiều ngân hàng càng thêm run sợ. Vì vậy, người ta sẵn sàng huy động củatổ chức kinh tế và dân cư với lãi suất cao hơn hẳn so với nhận tiền gửi liênngân hàng. Hiện tượng này đã kéo dài và đó là một nghịch lý thị trường chưatừng có. Việc này đã làm hạn chế rất nhiều hoạt động kinh doanh tiền tệ cũngnhư việc liên thông, chuyển dịch, điều hòa vốn giữa các ngân hàng.
Bài toán hóa giải?
![]() |
Nhưng đó chỉlà nguyên nhân của một nghịch lý. Với tưcách là một chuyên gia ngân hàng, ông cóthể lý giải nguyên nhân của các nghịchlý như ông nói?
Theo tôi, lãi suất cơ bản chỉ là một trong nhữngcăn cứ để các ngân hàng ấn định lãi suất cho vay cụ thể với nhiều loại chovay và nhiều đối tượng khách hàng khác nhau.
Theo lẽ thường, bên cạnh lãisuất cơ bản, thực tế thị trường phải có nhiều mức lãi suất khác cao hơn vàthấp hơn. Thế nhưng trong nhiều năm qua, đã không có loại lãi suất cho vaythấp hơn, mà chỉ có cao hơn, thậm chí là thoát ly hoàn toàn lãi suất cơ bản.Như vậy, lãi suất cơ bản đã quên mất lẽ sống là phải đồng hành cùng thịtrường. Đó là lỗi đầu tiên của lãi suất cơ bản. Nó đã đi một mình một đườngvà đánh mất vai trò dẫn dắt thị trường.
Mặc dù không có bất cứ quy định nào o bế, nhưnglãi suất cơ bản vẫn bị rơi vào tình trạng xơ cứng, tự đánh mất vai trò củamình. Lúc cần tăng giảm bao nhiêu cũng được để cho sát với thực tế thịtrường, thì nó đã quên nhiệm vụ. Đến khi gặp sự biến lãi suất tăng vọt vàođầu năm 2008, thì nó mới chợt bừng tỉnh.
Và từ chỗ là giải pháp tình thế, nóđã bị khoác cho trọng trách như của một cái van tim, đóng hay mở đều sẽ ảnhhưởng lớn đến hệ huyết mạnh thị trường. Đó là lỗi thứ hai của lãi suất cơbản, nó không vận động được một cách bình thường, vì phải chịu áp lực quánặng nề.
Một số đạo luật thay vì xác định cụ thể mức lãisuất giao dịch tối đa hay mức cụ thể để kết tội cho vay nặng lãi, thì lại đidựa dẫm vào lãi suất cho vay cao nhất hoặc lãi suất cơ bản của ngân hàng.
Dolãi suất cơ bản không những được “đóng đinh” trong Bộ luật Dân sự và Bộ luậtHình sự, mà còn hiện diện ít nhất trong 3 đạo luật khác nữa, nên đã trởthành lý do cơ bản xuất hiện nhiều tiếng nói phản đối việc bỏ lãi suất cơbản. Đó cũng chính là lỗi thứ ba của lãi suất cơ bản, nó đã bị pháp luậtkhóa cứng, cứ phải đứng như “bù nhìn” chịu trận.
|
Việc nhiều đạo luậtcăn cứ vào lãi suất ngân hàng đã dẫn đến tìnhtrạng đa số không biết giới hạn nào là vi phạmpháp luật dân sự, hành chính hay hình sự.
Bởi vì,lãi suất ngân hàng thay đổi quá nhiều và vậnhành theo những cơ chế quá khác biệt trong từngthời kỳ. Riêng lãi suất cơ bản, trong vòng 10năm qua, đã có trên 20 lần thay đổi và càng saunày càng thiếu ý nghĩa thực chất. Đặc biệt làgiai đoạn 2002 - 2005, không thể xác định đượcmột mức lãi suất cho vay nói chung và lãi suấtcao nhất nói riêng theo quy định của pháp luật,do thực hiện hoàn toàn cơ chế tự do hóa lãi suất.
Lãi suất toàn bộ thị trường ngân hàng đã từngđược tự do hóa 100% từ tháng 6/2002 đến tháng 5/2008. Trên thực tế từ trướcđến nay, trần lãi suất cho vay dựa trên lãi suất cơ bản cũng dường như đã bịvô hiệu hóa trong các giao dịch kinh tế, dân sự, bên ngoài ngân hàng. Từgiữa tháng 4/2010 đến nay, các ngân hàng đã được trở lại cho vay theo lãisuất thỏa thuận, tức là tự do hóa lãi suất trong ngành ngân hàng, thì mộtlần nữa lãi suất cơ bản lại bị vô hiệu hóa.
Ngân hàng là những tổ chức cho vay chuyên nghiệpvới bao nhiêu điều kiện ràng buộc chặt chẽ mà còn được giải phóng khỏi“xiềng xích” lãi suất cơ bản. Vậy thì chẳng có lý do gì lại bắt các phápnhân và cá nhân khác phải đội mãi cái vòng kim cô lãi suất cơ bản trong cácgiao dịch kinh tế, dân sự. Đó là lỗi thứ tư của lãi suất cơ bản, nó đã gâyra quá nhiều rắc rối, công ít, tội nhiều, đáng bỏ hơn là đáng giữ.
- Vậy hóa giải nghịch lý lãi suất là gì?
Chỉ một câu thôi, theo tôi, phải bỏ lãi suất cơbản.
- Xin cảm ơn ông!
Theo Ngọc Nhi
Diễn đàn doanh nghiệp