Phú Mỹ cách thị xãhơn năm mươi cây số, khoảng bốn mươi lăm phút chạy xe gắn máy. PhúMỹ là một xã vùng sâu còn nhiều khó khăn, trái ngược hẳn với cái tênkhá kêu của nó, có nghĩa là giàu - đẹp.
Ông Thành quyết địnhdọn về ở hẳn dưới Phú Mỹ, sau khi nhận được quyết định nghỉ hưu. Haingàn mét vuông đất ông đã mua từ mấy tháng trước vừa nhận được sổđỏ. Bên bán là một gia đình nông dân, đang lúc cần tiền. Ông muatrực tiếp của chủ, không qua trung gian nên giá cả cũng phải chăng.
Hai ngàn mét vuôngđất phèn mặn, lơ thơ vài cây đước cây mắm còi cọc, mấy thân dừa cụtđọt vừa nhìn thấy là đã ngán ngẩm tận cổ, chưa tính chuyện đây là xứkhỉ ho cò gáy, bệnh chết rũ xương vài tháng cũng chưa chắc đã có aihay.
Vợ ông Thành muốn lênhuyết áp khi tháp tùng chồng về Phú Mỹ để “ngắm” miếng đất mà ôngbảo là trong mơ.
- Lương hưu của ông,ông muốn làm gì thì làm, chớ tôi thì không điên tới mức tự dưng lạiđày mình về xứ này.
![]() |
Minh họa: Tuấn Anh |
Mặc thái độ của vợ,cầm được sổ đỏ trên tay, ông Thành lập tức thực hiện ngay ý định củamình. Hành trang ông mang theo chỉ đơn sơ vài bộ quần áo và một sốđồ dùng cá nhân. Một gia đình nông dân tốt bụng ở gần đó đồng ý choông tạm trú đến khi nào dựng xong nhà trên mảnh đất mới mua.
***
Về Phú Mỹ là về thếgiới của riêng mình. Mấy mươi năm nay ông Thành luôn nằm mơ về nó.
Hơn ba mươi nămtrước, ông từng là đứa con của Phú Mỹ. Những Giáp Nước, Đất Cháy,Phong Lạc, Đầm Bà Tường…, nơi nào mà chẳng có dấu chân của ông.
Phú Mỹ không phải nơichôn nhau cắt rốn nhưng lại là nơi chứng kiến từng bước trưởng thànhcủa một cậu giao liên trẻ tuổi đến anh đại đội trưởng dày dạn trậnmạc vào sinh ra tử. Chính Phú Mỹ là người mẹ hiền tiễn ông cùng đoànquân giải phóng tiến về tiếp quản thị xã hơn ba mươi năm về trước.
Và Phú Mỹ còn là nơiông vĩnh biệt người nữ du kích tên Liên, mối tình đầu của ông trongmột trận chống trực thăng đổ bộ ven đầm Bà Tường.
Nhờ sự giúp đỡ hếtlòng của bà con hàng xóm, ngôi nhà của ông Thành chỉ trong vòng mộttháng đã cất xong. Nhà nền đất, cột kèo bằng cây đước, mái lợp ládừa nước. Ông gọi vui là nhà nghĩa tình, dù ông không ở trong diệnđược cấp nhà tình nghĩa.
Cất xong nhà, đã cóchỗ an cư, ông Thành tính ngay chuyện làm ăn.
Ông thuê cơ giới vàođào mương lên liếp. Ông dự định trên liếp sẽ trồng dừa, loại dừa lùnchỉ sau ba năm chăm sóc tốt sẽ cho trái. Còn dưới mương, ông sẽ thảđủ loại cá, xung quanh nhà thì trồng rau, chăn nuôi gà vịt… Tự cungtự cấp là tốt nhất. Bạn bè đến nhà chỉ cần chạy ra vườn ít phút làsẽ có thứ đãi đằng, lai rai. Lúc đó ông sẽ mời bà vợ về đây tận mắtchứng kiến hai công đất mà bà từng chê ỏng chê eo đã trở thành một“khu du lịch sinh thái” duy nhất ở vùng này.
Sau khi cất nhà, lậpvườn xong, ông sẽ quần nát hai bên đầm.
Hài cốt của Liên chắcvẫn còn nằm đâu đó. Trong trí nhớ của ông thì cô được đặt nằm dướigốc một cây su già, xung quanh được che chở bằng trùng trùng lớp lớpdừa nước, đước, vẹt... Để sau này dễ nhận ra, ông còn tháo chiếcđồng hồ Rado của mình đeo vào tay cô và đinh ninh rằng ngay sau ngàyhòa bình, ông sẽ trở lại.
Vậy mà thoắt đó đãhơn ba mươi năm.
Ông Thành còn dự tínhnhiều việc nữa. Vì sợ nay nhớ mai quên, ông cẩn thận ghi vào cuốntập học sinh từng công việc một, việc nào ưu tiên thì ông ghi bằngmực đỏ. Cứ mỗi lần uống trà, ông lại lật nó ra đọc lại và ghi thêmnhững công việc mới.
Vậy nhưng tiến độthực hiện của ông không mấy khả quan. Cơ giới đang gấp rút đàomương lên liếp thế nhưng máy móc cứ hư tới hư lui. Thành ra mất khánhiều thời gian mà mọi chuyện vẫn chưa đâu vào đâu.
Điều làm ông Thànhday dứt hơn cả là, hơn nửa năm qua ông đã lội tới lội lui khắp haibên bờ đầm để cố tìm ra nơi chính tay mình đã chôn cất Liên mà mãivẫn chưa thể tìm thấy.
Không còn bóng dángcây su cổ thụ, triền dừa nước um tùm ngày nào cũng không còn. Khôngcòn bất cứ cái gì mà ngày xưa ông Thành từng quen thuộc.
Vài người dân xungquanh tội nghiệp ông, cũng xăng xái phụ ông tìm kiếm nhưng sau đóhoàn toàn vô vọng. Mấy mươi năm qua, mặt đầm đã rộng hơn rất nhiềudo triều cường, xoáy lở, cộng với việc đào mương xẻ kinh để dẫn nướcnuôi tôm.
Cốt của cô ấy… biếtđâu đã… Nghe họ thì thầm bàn tán, ông Thành thực sự thấm thía vớicâu “thương hải biến vi tang điền”.
Nhưng đào được hơnhai phần ba diện tích thì máy móc lại bị trục trặc, lần này có vẻphức tạp hơn những lần trước. Thợ cứ hí hoáy với đống sắt thép đầydầu mỡ đến mấy ngày trời vẫn chưa thấy chút hy vọng nào.
“Chuyến này chắc tụitui lỗ sặc máu rồi bố già ơi. Miếng đất của ông kỳ cục quá. Động thổcó cúng kiếng đàng hoàng đầy đủ rồi mà vẫn bị vật hoài là sao vậytrời?!”.
Nhìn tay chủ máy vòđầu bứt tai mà ông Thành cũng chẳng biết làm sao hơn. Lớp lớp đấtsình ngổn ngang xung quanh khiến ông càng thêm ngán ngẩm. Bao hùngtâm tráng chí lúc mới về đây của ông Thành dường như đã bị hao hụthết tám chín phần.
***
Trong lúc uống trà,ông Thành đem chuyện máy móc trục trặc ra than thở với người nôngdân đã bán cho mình miếng đất ấy. Người chủ đất nhíu mày như cố nhớra điều gì, rồi vỗ đét vào đùi, giọng hoảng hốt: “Chết rồi, cháuquên mất chuyện này. Lẽ ra phải nói trước với bác!”.
Rồi anh ta cứ rề rà,cà kê, kể có đầu có đuôi mọi việc mà theo anh ta thì đáng lẽ phảinói rõ trước khi bán đất.
“Theo lời ông già củacháu kể lại thì ngày xưa, bờ đầm không phải ở trong này mà ở tậnngoài kia, tức là cách chỗ bây giờ gần cả công đất. Mà cây cối lúcđó um tùm lắm…” (điều này ông Thành biết rõ hơn anh ta. Thời chiếnhễ nghe tiếng máy bay, cứ lẩn vào biền lá xanh hai bên bờ, đố chathằng phi công nào thấy được).
“Trong một trận chốngcàn, bên mình đã bắn rớt năm chiếc trực thăng định đổ quân. Bộ đội,du kích hy sinh cũng khá nhiều, sau này phần lớn đã được cải táng vềnghĩa trang liệt sĩ tỉnh (chuyện này thì lẽ ra ông phải là người kểcòn anh ta ở vị trí người nghe mới đúng). Sau giải phóng, cha củacháu có lần đi bắt cua ven đầm tình cờ thấy một cây su già đã ngãxuống mép nước. Bữa sau quay lại, ổng định cưa cây su già về xẻ ralàm ván, không ngờ chỗ gốc cây su ngã bật ra một cái hốc đất sâu,nhìn kỹ thì thấy toàn xương người. Thiệt ra việc phát hiện xươngngười trong lúc đào vuông hay làm nhà cửa là chuyện bình thường,không có gì lạ…”.
Vừa nghe đến “cây sugià”, ông Thành đã giật thót người, run rẩy đánh rơi cả tách tràtrên tay.
Anh nông dân lại nhẩnnha kể tiếp:
“Sau khi phát hiệnra, cha cháu cúng kiếng vái van đủ cả, sau đó mới bốc cốt đem vềchôn trên miếng đất của nhà... Nghĩa tử là nghĩa tận bác ơi…”.
Ông Thành không cònkiên nhẫn được nữa, đứng bật dậy:
- Miếng đất đó ở đâu?Bộ hài cốt đó bây giờ ở đâu?
Anh nông dân gãi đầu:
- Dạ… miếng đất đócháu đã bán cho bác… Mà chắc xáng cuốc cũng cuốc gần tới nơi rồi…Chuyện lâu quá, giờ cháu mới sực nhớ…
- Trời ơi, sao cậukhông nói sớm? Cậu có biết cái quên của cậu là có lỗi với vong linhngười đã khuất hay không? Và cậu có biết ai đang nằm ở đó hay không?Đó là… (ông Thành định nói đó là Liên, nhưng ông ghìm lại kịp)… Đólà một liệt sĩ, đồng đội của tôi đã hy sinh trên đất Phú Mỹ này! -Ông Thành như hét vào mặt người nông dân trẻ tuổi đang chưng hửng vìthái độ lạ thường của ông.
***
Ngay tối hôm đó, ôngThành một mình mang đèn đi ra chỗ chiếc xáng cuốc bị hư. Theo lờianh nông dân thì: “Chiếc xáng bị hư hoài chắc do cũng ở gần chỗ đó…Mà không chừng ở ngay phía dưới lưỡi xáng cuốc… Cháu nghe tay chủmáy bảo, cứ hễ mỗi lần sửa xong, đem đi đào xung quanh thì khôngsao nhưng cứ định hạ gàu xuống chỗ gốc cây trâm bầu đó là có trụctrặc ngay. Mười lần như một!”.
Đúng là có gốc trâmbầu theo lời mô tả của anh nông dân. Đúng là chỉ vì máy hư nên lưỡixáng cuốc đã dừng lại cách đó chỉ vài thước.
Ông Thành đặt cây đènbên cạnh, nhẹ nhàng dùng lưỡi dá đào nhẹ xung quanh gốc trâm bầu.Chỉ sau vài lần đào, một tiếng “cách” đã vang lên. Lưỡi dá chạm phảimột vật gì đó.
Toàn thân run rẩy vìxúc động, bỏ cây dá sang một bên, ông Thành dùng tay cào từng lớpđất.
Vật đầu tiên ông nhìnthấy chính là ánh phản chiếu của chiếc đồng hồ Rado quen thuộc…
***
Ngôi nhà vừa cấtxong, hai ngàn mét vuông đất còn đang ngổn ngang bờ liếp, ông Thànhđã cho người chủ cũ thuê lại với giá rẻ, với ý định sẽ nhờ anh tatrông chừng.
Những dự định ghitrong sổ của ông Thành thực ra đã bị phá sản từ lâu mà ông cố tìnhkhông chịu thừa nhận: cả vùng Phú Mỹ này đã bị nước biển xâm thực kểtừ khi chuyển từ trồng lúa sang nuôi tôm. Ông Thành cứ đinh ninh,giống như hồi đó, tuy ở ngoài đầm nước mặn nhưng phía trong cây cốivẫn tốt tươi bạt ngàn, lúa mỗi năm một vụ, còn cá đồng thì nhiều vôkể.
Sau những đợt chốngcàn, muốn bồi bổ bằng tôm tép, cua cá biển thì ra ngoài đầm; ăn ngánthì vót vài cây cần câu cắm ở bờ ruộng, kiếm vài con cá lóc cá trênấu nồi cháo tống, cả đơn vị ăn không hết. Còn bây giờ, dân ở đâymuốn ăn một ngọn rau cũng phải đi mua, vì nhìn đâu cũng thấy toànvuông tôm nước mặn. Tới mùa nước rong, nước tràn lên sân nhà, nổiphèn mặn chát, không thứ cây con gì sống nổi.
Lúc ông đang nung nấuý định “về hẳn” ở Phú Mỹ ra sao, giờ ông trở ngược lại cũng y nhưvậy. Cũng chỉ vài món đồ vặt vãnh, vàng ám một màu phèn mặn. Chỉ mớimấy tháng mà ông Thành đen đúa già sọm hẳn ra, trông giống một lãonông tri điền thứ thiệt chứ không hồng hào tươi nhuận như lúc mớirời chốn quan trường.
***
Mỗi khi có người đếnnhà tìm chồng, vợ ông Thành đáp cụt ngủn: “Ổng ở ngoài nghĩa trang,ra đó mà kiếm!”. Nhiều khi, khách lại tưởng ông Thành nhận thêm việctrông coi nghĩa trang, nên hỏi tới thì bà vợ bực bội xẵng giọng: “Cógì đâu. Chẳng qua ổng thích ở với người chết, không thích ở vớingười sống. Vậy thôi!”.
Với bạn bè, bà còntiết lộ, rằng toàn bộ số tiền nghỉ chế độ cộng với số vốn gom gópđược khi còn đương chức, ông Thành đã trút hết vào hai ngàn métvuông đất ở Phú Mỹ.
Phải chi miếng đất đóbán lại được, kiếm lời chút đỉnh thì cũng đỡ, đằng này ổng chỉ xáchđít về không. Coi như mất trắng.
Mà không, ổng có đemvề duy nhất một thứ, đó là bộ hài cốt của người yêu cũ! - Bà vợ chuachát đay nghiến.
Làm sao biết được,sau khi về hưu, trong những cái còn lại, điều gì có giá trị nhất vớiông Thành.
Chỉ có mình ông hiểurõ. Nhất là sau khi ông từ Phú Mỹ trở về.
Truyện ngắn của Lê Minh Nhựt
TNO