"Lối sống xuề xòa, trọng tình khiến chúng ta thường sống thỏa hiệp chứ không kiên định các nguyên tắc, quy định pháp luật, giá trị cá nhân".
Sáng 10/10, liên quan đến hiện tượng có nhiều tấm biển cảnh giác ở nước ngoài được ghi bằng tiếng Việt, báo Phụ nữ Online đã có cuộc trò chuyện với chuyên gia Tâm lý giáo dục Trần Thành Nam (GV trường Đại học Giáo dục - ĐHQGHN) về hiện tượng này.
![]() |
Chuyên gia Tâm lý giáo dục Trần Thành Nam (GV trường Đại học Giáo dục - ĐHQGHN). |
PV: - Thưa
ông, gần đây, nhiều tấm biển cảnh giác ở nước ngoài, được ghi rõ bằng
tiếng Việt. Ông bình luận như thế nào về hiện tượng này? Bản thân ông
khi ra nước ngoài đã gặp những tình huống ngại ngùng vì cách ứng xử của
người Việt chưa?
TS Trần Thành Nam: -
Hiện tượng ăn cắp vặt là một hiện tượng phổ biến trong xã hội chứ không
riêng Việt Nam. Ăn cắp vặt có thể xảy ra đối với bất cứ ai và cũng do
rất nhiều nguyên nhân.
Một số nguyên nhân phổ biến là (i) không
có ý định từ trước nhưng hoàn cảnh quá thuận lợi và món đồ quá hấp dẫn
nên không cầm lòng được; (ii) lấy cắp đồ vì cần tiền để mua ma túy hoặc
kiếm sống để tồn tại; (iii) lấy cắp đồ để sử dụng hoặc đem tặng để thể
hiện đẳng cấp (nhiều hơn ở lứa tuổi thanh thiếu niên); (iv) không nhận
thức được về hình phạt hoặc hình phạt quá nhẹ. Ngoài ra, ăn cắp vặt cũng
có thể là một dạng của rối loạn tâm thần (bệnh Kleptomania) hoặc bị ảnh
hưởng của một rối loạn tâm thần khác như trầm cảm.
Trong thời
gian tôi học tập ở nước ngoài, tôi cũng có biết một vụ việc có liên quan
đối với sinh viên Việt Nam đang học tập tại vùng đó.
Đó là thời điểm một tuần trước lễ Noel, một nữ sinh viên đại học năm nhất đi mua đồ trong một khu mua sắm. Bạn này đã lấy một chiếc váy giá $70, bỏ vào túi xách của mình, đi dạo vài vòng trong khu bán quần áo rồi lên tầng trên chuyển sang khu bán mỹ phẩm.
Ngay khi lên khu bán mỹ phẩm, nhân
viên bảo vệ đã tiếp cận và yêu cầu kiểm tra, đưa về khu vực cách ly và
gọi cảnh sát. Sinh viên này lúc đầu cho rằng mình quên chứ không phải cố
ý ăn trộm nhưng đến khi cảnh sát xuất hiện thì bạn thú nhận và bị kết
tội.
Trên đây, tôi chỉ mô tả sự kiện chứ không kết luận. Với
luật pháp ở đây, để kết luận ăn trộm thì nhân viên phải nhìn thấy thủ
phạm tiếp cận sản phẩm, giấu sản phẩm, không trả tiền cho sản phẩm và
mang sản phẩm ra khỏi cửa hàng.
Cá nhân tôi cho rằng, đây là một trường hợp đáng tiếc gây xấu hổ nhưng chưa thể chắc chắn bạn đó thực sự ăn cắp đồ. Bạn sinh viên này có thể lơ đãng và thiếu hiểu biết về quy định pháp luật.
Bạn có thể cho rằng mình vẫn còn ở trong khu mua
sắm thì vẫn có thể quay xuống để trả tiền, chứ không nghĩ rằng mình chọn
hàng ở khu nào thì phải trả tiền luôn ở khu đó và ra khỏi khu vực bán
mặt hàng quần áo tức là đã ra khỏi cửa hàng.
PV:
- Để nước ngoài có ấn tượng xấu về người Việt như vậy, theo ông, nguyên
nhân là do đâu: do ý thức của người Việt kém hay đây là biểu hiện của
việc giáo dục chạy theo kinh tế, chứ không chú trọng hình thành nhân
cách, lối sống?
TS Trần Thành Nam: -Tại
sao những người nước ngoài lại ấn tượng xấu với người Việt như vậy? Nên
biết rằng, tỉ lệ bắt được thủ phạm ăn cắp vặt là rất hiếm, chỉ khoảng
1/150 trường hợp. Nhiều trường hợp chỉ bị phát hiện sau đó khi chủ cửa
hàng xem lại bằng video của camera theo dõi.
Như vậy, bên cạnh người Việt ăn cắp đồ thì còn nhiều người thuộc quốc gia khác, trong đó có các quốc gia Châu Á cũng ăn cắp.
Tuy nhiên, những người bị bắt (có thể do ăn trộm quá nhiều lần, quá ngây thơ chủ quan với các hình thức chống trộm cắp) lại là người Việt; những đường dây tiêu thụ hàng trộm cắp từ trong siêu thị ra bị cảnh sát phanh phui cũng do người Việt cầm đầu.
Điều này làm cho giới kinh doanh dán nhãn người Việt là người ăn cắp có tổ chức. Sau đó, khi có bất cứ một người Châu Á nào bị phát hiện qua camera mà không bắt được thì người chủ cửa hàng sẽ đưa lên mạng. Và những người xem có xu hướng gắn mác luôn đó là người Việt Nam.
Nói như vậy để thấy hệ lụy khi đã bị
gắn mác xấu, chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả cho những việc
tương tự xảy ra dẫu chúng ta không làm.
Tuy vậy, tiên trách kỷ, hậu trách nhân. Cũng phải nhìn nhận lại những điểm xấu xí trong tính cách dân tộc mình.
Theo tôi, nguồn gốc dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật như vậy là do lối sống xuề xòa, a dua, một bồ cái lý không bằng một tí cái tình của đại bộ phận người Việt.
Đó là lối sống mà chúng ta thấy một người vượt đèn đỏ mà không bị chặn là chúng ta bắt chước vượt đèn theo. Khi bị cảnh sát giao thông hỏi thăm thì không bao giờ nhận lỗi sai, mà trước tiên hỏi người khác cũng làm thế sao anh không bắt.
Sau khi nói cứng không được thì lại chuyển sang mềm mại thương lượng, xin lỗi và cuối cùng, các chú công an cũng thương tình cho chịu một hình phạt nhẹ.
Lối sống xuề xòa, trọng tình khiến chúng ta thường sống thỏa hiệp chứ không kiên định các nguyên tắc, quy định pháp luật, giá trị cá nhân. Điều này sẽ làm con người dễ dao động khi đứng trước những “món lợi”.
PV: - Đáng chú ý, kể cả những nhân viên hàng không cũng ghi danh xấu trong mắt bạn bè quốc tế như trường hợp của Vietnam Airlines. Trong trường hợp này, VNA phải có những biện pháp cứng rắn chấn chỉnh ra sao? So với các trường hợp khác, hành động của những nhân viên này có đáng trách hơn không và vì sao?
TS Trần Thành Nam: - Những người càng có vị trí cao, người của công chúng, người đại diện cho một thế hệ Việt Nam trẻ, năng động và hiện đại như những nhân viên hàng không càng cần phải có nghĩa vụ và trách nhiệm bảo vệ hình ảnh của bản thân và của ngành nghề.
Bất kỳ một hành động xấu nào cũng sẽ bị coi là một tấm gương đại diện phản chiếu nét tâm lý, ý thức, hành động và suy nghĩ của một lớp người, thậm chí cả một thế hệ hay một dân tộc.
Tôi nghĩ rằng, cái gốc để phòng ngừa những sự việc tiêu cực như trên có thể xảy ra là phải đưa môn đạo đức hành nghề (có cập nhật các tình huống thời sự xảy ra trong xã hội) trở thành môn học bắt buộc, được đánh giá thường xuyên trong suốt quá trình đào tạo.
Những người có trách nhiệm cũng cần xác định những ngành nghề nào, tình huống nào có nguy cơ gây ảnh hưởng đến hình ảnh dân tộc để đưa ra những quy trình bắt buộc liên quan đến đào tạo về đạo đức và pháp luật.
Ví dụ, nghiên cứu cho thấy, tình trạng ăn cắp vặt thường diễn ra trong thời điểm người ta đi du lịch hoặc tổ chức một sự kiện lớn nào đó cần chi phí rất nhiều vào những thứ nhỏ nhặt.
Vậy thì, các công ty tổ chức du lịch, đặc biệt là các tour mua sắm sẽ phải tổ chức một buổi giáo dục nhận thức pháp luật và đưa ra khuyến cáo đối với khách du lịch trong đoàn trước khi tham gia tour.
PV: - Những sự việc nói trên sẽ ảnh hưởng như thế nào tới hình ảnh của người Việt ở nước ngoài nói riêng và hình ảnh Việt Nam nói chung trong mắt bạn bè quốc tế?
TS Trần Thành Nam: - Những sự việc như vậy sẽ làm cho vị thế của người Việt nói chung thấp kém trong con mắt bạn bè quốc tế chứ không chỉ là người Việt ở nước ngoài.
Chúng ta đều mang danh xưng là người Việt Nam nên nếu bị bạn bè quốc tế gắn nhãn thì sẽ rất không công bằng với những con người trung thực và chăm chỉ đang hàng ngày hàng giờ cố gắng kiếm tiền bằng sức lao động chân chính.
Vì vậy, đứng trước sự kiện có thể ảnh hưởng đến hình ảnh quốc gia hoặc dân tộc, cần nhanh chóng xử lý khủng hoảng truyền thông bằng cách đưa ra các quyết định kỷ luật nhanh chóng và tỏ thái độ rõ ràng để bạn bè quốc tế thấy rằng, đó chỉ là những con sâu làm rầu nồi canh.
PV: - Thưa ông, trước hiện tượng này, nhiều người Việt trong nước lên tiếng bức xúc, coi đó là làm nhục quốc thể. Ông có đồng tình với những ý kiến này không? Và theo ông, ai phải xấu hổ trước những hiện tượng này?
TS Trần Thành Nam: - Cá nhân tôi nhận diện việc đưa các khuyến cáo chống ăn cắp bằng tiếng Việt ở nước ngoài là do các chủ cửa hàng có định kiến người Việt Nam là người ăn cắp một cách tự giác (hành vi lặp lại, có mạng lưới thành viên, hệ thống tổ chức tiêu thụ hàng ăn cắp) chứ không phải chỉ ăn cắp tự phát (do hoàn cảnh thuận lợi) nên họ định hướng đấu tranh chính với người Việt mặc dù những dân tộc khác cũng có thể ăn cắp.
Nếu như vậy, mỗi cá nhân chúng ta đều phải biết xấu hổ và phẫn nộ. Tiếp đó, không phải tìm xem ai cần xấu hổ trước tiên mà phải xác định chính xác cần làm gì.
Theo tôi, cách phòng ngừa bền vững là giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống. Chúng cần phải được đẩy mạnh việc giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống theo những cách thức đo lường được để đảm bảo sẽ có một thế hệ sống theo nguyên tắc và kiên định với những giá trị tích cực.
PV: Cảm ơn ông vì những chia sẻ trên!