Đừng sợ hãi, dù vì nó mà ngườita sống, chết...

1. Chồng Sáo chết vì mấy lá ngògai.

2. Nhà chức trách nói rằng họđang tìm sự thật nhưng có thể chồng Sáo đã lẻn lên bè rẫy Đại Thanh trộm tài sảncủa họ, lúc người ta bắt gặp đã xảy ra xô xát nhỏ, anh lao xuống sông định trốn,chết nước là chuyện rủi ro không ai ngờ...

Những người đầu tiên trôngthấy xác chồng cô đều chứng kiến trên tay anh ta còn cầm một sợi dây chuyền vàngđã đứt” - nhà chức trách bảo vậy. Sáo nói không phải đâu, anh Thi chồng tôichỉ muốn lén hái vài lá ngò. Nhà chức trách hơi xẵng giọng: chúng tôi dựa trênnhiều bằng chứng quan trọng. Sáo cãi không phải đâu, chồng tôi cần có chút ngògai thôi. Họ kiên nhẫn kêu vài nhân chứng tới nói mấy câu chuyện ngập ngừng.

Sáo cãi phăng đi. Ngay khi Sáo ômsiết chồng đang nằm thõng thượt trên cái bàn dài đặt giữa văn phòng nhà chứctrách, ngay khi nó vùi mặt mình vào cơ thể lạnh lẽo chi chít những chỗ tím bầm,ràn rụa tìm kiếm hơi thở của anh núp trốn đâu đó, trong rún, trong mắt hay ở bênsườn. Khi lướt qua đôi môi giập nát nó nghe phảng phất mùi ngò gai. Trời đất ơi,chồng nó đã nhấm nháp thưởng thức mùi vị chúng ngay khi vừa hái được. Anh vẫnchưa nuốt trôi khỏi cổ, ý nghĩ đó làm nó nghẹt thở. Người ta đang nhâm nhi ngògai thì không ngó ngàng tới vàng bạc đâu, Sáo nói và xốc ôm chồng tha về ghe.

Nước như nước mắt

Minh họa: Vũ Đình Giang

Dưới sạp ghe hai con cá bạcđầu đã chết. Cặp cá này sáu tiếng đồng hồ trước vợ chồng Sáo giăng lưới bắtđược. Cá bị nước đuổi ốm tong teo nhưng chồng Sáo sướng quên trời đất, vànhư con nít, anh đứng múa may quay cuồng ở đầu ghe, kêu hết sẩy hết sẩy, nóiphước đức ông bà để lại. Chưa bao giờ Sáo thấy anh hạnh phúc, hân hoan đếnvậy, đến nỗi nó đã chạnh lòng ngay lúc đó, anh đâu có từng tỏ ra quý mìnhnhư quý cặp cá này.

Cá bạc đầu luôn đi thành đôi, làloại cá rất hiếm hoi. Sục sạo như chồng Sáo cũng chỉ một lần thấy chúng. Máchồng Sáo hồi còn sống thường thắt thẻo nói vợ chồng nào hiếm muộn con cái nuốtmật cặp cá bạc đầu thể nào cũng cấn thai. Bà hay ngồi ở cửa trước hóng coi trẻcon bên xóm đang chạy giỡn, tiếng thở dài của bà lững thững bay về phía Sáo nhoinhói.

Chồng Sáo cà rỡn: “Bắt được cábạc đầu rồi vợ con sanh một lần bảy đứa, cho má giữ mệt nghỉ...”. Má chồngkhông chờ được, lúc bà chết bên vách vẫn còn giắt mớ vỏ tỏi - thứ đàn bà đẻ dùngđể xông da thịt cho thơm. Chồng Sáo vẫn phấn khích quăng chài xuống sông Sắcnuôi hi vọng, không hoàn toàn vì khao khát trẻ con. Chồng Sáo đã được ăn cá bạcđầu một lần hồi mười lăm tuổi mà mỗi khi anh nhắc lại nồi canh cá nấu mẳn, Sáolại thấy nước miếng rỉ ra rưng rưng bên mép anh.

Người Châu Thổ hay nói bắt tao tảđau bụng đẻ ra làm sao chẳng khác nào kêu tả mùi vị con cá bạc đầu, tức là chẳngthể chia sẻ cảm giác với người khác nếu họ không tự mình trải qua. Sách Bi kýchép lại năm 813 đã có một làng chài bị tàn sát vì giữ lại cá bạc đầu mà khôngcống nộp cho vua. Một trăm ba mươi bốn người trong làng đã chết. Ba chồng Sáoquý cuốn sách đó như một gia tài nhưng nhà nó đã làm mất vào một bữa nước độtngột dâng.

Giờ con cá của những đồn đãi, concá huyền thoại, con cá vì nó mà người ta sống, chết đang nằm trong ghe nhà Sáo,đuôi màu xám đậm rồi phai dần cho đến phần đầu thì trắng muốt tựa bông lau chín.Cái chết cận kề không làm cho chúng thôi quấn quýt. Chúng chạm râu vào nhau khẽkhàng, như âu yếm, như đờ đẫn, như dịu dàng lại như kiệt sức. Phải, nước đuổi đãquá hai tháng rồi, đến con người cũng phờ phạc bạc đi.

3. Mùa nước đuổi bắt đầu từ giữatháng giêng. Ngó nước bắt đầu linh đinh bờ bãi, người ở xóm Rẫy thở dài ứ hự,chắc năm sau ăn tết trên ghe.

Cứ mỗi năm nước đuổi lại tới sớmhơn, mùa mỗi năm mỗi dài hơn. Tết chưa tàn vợ chồng Sáo đã lụi hụi dọn đồ đạclên ghe, bông vạn thọ trồng trong cái khạp lủng để trước hàng ba còn chưa bungnở hết. Chồng Sáo cứ tiếc là ghe chật quá, không rinh cái khạp đó đem theo được.

Anh còn muốn bứng cả cây cỏ quanhnhà theo, nếu có thể. Nên trên ghe lủ khủ những bụi hành hẹ, sả, vài cây ớt, ngòom... Mấy thứ cỏn con này hay làm chồng Sáo bận lòng, ăn cá chốt nấu cơm mẻ màthiếu sả ớt, cá trê nướng mà không gừng... là anh băn khoăn lắm. Anh nói thàkhông ăn, chứ ăn vầy không đúng điệu.

Chồng Sáo ưa nói hai từ đúngđiệu. Coi kìa, đêm nay trời trong nhưng trăng tròn quá nhìn không đúng điệu,phải khuyết chút ngó hay hơn. Nắng vầy mà có bóng cây để treo võng nằm chơi làđúng điệu. Con cá lóc này phải có rơm khô chất lên đốt nướng trui mới đúng điệu.Sống giữa trời nước bao la vầy mà không có nước để tắm cho đúng điệu, nghĩ màtức.

Sáo nhớ chồng nó nói câu đó khiđang ngồi ễnh ra, xe miết mấy ngón tay da cổ làm đất rụng xuống lả tả, gọi làtắm khô, kỳ cọ bằng mồ hôi xong sẽ tắm ướt bằng hai gàu nước. Nhưng có bữa chồngSáo tắm cả xô, tắm đúng điệu. Chữ đúng điệu nhiều lúc làm Sáo sợ. Nhất là khinghe bảo “em nằm day lại tui gãi cho đúng điệu cái coi”.

Đêm nào trước lúc ăn nằm với nhaubao giờ chồng cũng gãi lưng Sáo, trong một trình tự lớp lang đúng điệu, bắt đầutừ lúc những ngón chân cọ vào bắp chân Sáo, sau đó này sau đó kia, anh nhẩn nhađến nỗi nó thiu thiu ngủ luôn bỗng nghe cái gì đó xộc tới chới với. Nó khôngthích vậy nhưng không dám nói, biết đâu vì cái khoảnh khắc chới với đó mà trẻcon không chịu ra đời.

Sáo còn hồ nghi vì hai chữ đúngđiệu mà nhà nó nghèo. Gieo mấy giồng cải, chồng Sáo nói lá cải chưa mướt mà nhổbán là không đúng điệu, nhưng chờ tới lứa cào cào ở đâu bay lại ăn đám rau ráchnát. Có năm trồng dưa hấu, thấy dưa lớn trái lại đang được giá Sáo đòi bán chothương lái. Chồng bảo chờ cho dưa chín thêm ít nữa, cho da trái dưa căng bóngmới đúng điệu. Ai ngờ trời trở mưa một trận, không kịp cắt dây dưa nổ lụp bụpnhư pháo, nứt vỏ hết. Trắng tay.

Mùa đó là mùa dưa cuối cùng trênđất nhà Sáo. Năm sau nước đuổi tới nơi, cứ nghĩ nước tràn quanh quẩn những vùnggần biển thôi, nhưng nước theo sông ngày càng vào sâu hơn, tràn bờ bãi, ngấm vàochân ruộng. Người ta kéo nhau đi đào đất đắp bờ, nhưng đắp tới đâu nước theo tớiđó, cơi nhà tới đâu nước ngập tới đó, không lẽ ở trên mái nhà, thôi kéo nhau lênghe ở cho rồi. Cây trái tàn rụi, chỉ còn cỏ đuôi mèo là sống được, đem bán rẻmạt cho những người chăn nuôi bò ở bên kia biên giới chẳng được bao nhiêu tiền.

Chồng Sáo không lấy chuyện đó làmphiền, cả khi ôm cái lư hương cha mẹ rút lên ghe chờ qua mùa nước đuổi, anh vẫnlàm mặt tỉnh queo. Cả xứ này bỏ đất mà đi chớ đâu phải chỉ nhà mình, chồng Sáonói vậy. Chỉ một lần duy nhất chợt thèm ớt giữa bữa cơm, mà cây ớt đem theo đãchết queo, anh mới dựng đũa kêu trời.

Trời im ắng ở trên cao, trongngằn ngặt, trong như nước mắt. Nắng quay quắt như vắt như vo con người thànhnhững hòn đá khô khốc có thể lăn cọc cạch. Vợ chồng Sáo neo ghe ngay trên đấtvườn mình, cạnh mái nhà mình, lây lất sống nhờ chài lưới những con cá nước đụccòn sót lại ốm ròm trên mình đầy ghẻ lở... sau đó thì tới đám cá nước trong lenlỏi vào sâu trong đất liền, hai đứa kiếm được chút đỉnh tiền gạo và không đếnnỗi cực ăn. Nhưng có bữa chỉ bắt được cá sầu ngư, đành ăn cơm với muối hột.

Sầu ngư bình thường vẩy màu xámbạc chỉ nhẩn nha ăn bèo rong trôi dạt, đến nước đuổi thân cá trở nên đỏ thẫm.Chúng có thể sống tỉnh queo nhờ rỉa xác súc vật chết trôi, trong đó có cả xácngười. Chồng Sáo vừa ghét vừa ghê sợ chúng, anh xỉa xói: “Cái thứ ham sốngtới nỗi bất chấp tội lỗi...”. Sáo mắc cười quá, mắng cá mà như mắng người.

Sáo đâu có ngờ có ngày mình phảibảo vệ chồng khỏi miệng cá sầu ngư.

4. Chồng Sáo ốm teo, nằm gọn đeotrong cái hòm được ghép tạm bằng mấy tấm ván ngựa xóm giềng giúp mò lấy từ dướinhà lên. Lúc lau rửa cho chồng, men tay theo từng tấc thịt da dường như đang tanchảy, Sáo thấy buồn quá. Không thể chôn xuống đất, người ta bày cách dìm hòmxuống nước, lấy dây buộc níu vô cột nhà, chờ nước rút mới đem âm thổ. Vị mặn củanước ngấm vào sẽ làm chồng Sáo lâu tàn rữa, họ nói vậy.

Xóm giềng lặng lẽ tiễn chồng Sáo.Cũng mệt mỏi và đuối sức như những con cá nước đục khắc khoải sống với cái vịmặn mòi xa xót của biển, họ chới với khi bị bứng lìa khỏi đất, khỏi cái màu xanhrười rượi của cỏ cây. Cả cái chết cũng không phải xa lạ, nó diễn ra mỗi ngày,người ta chết đuối, chết vì khát, vì thèm tắm, vì nhớ vị của trái ổi chát, vìgiành nhau cành củi trôi sông...

Riêng chồng Sáo thì chết vì thèmrau. Hàng xóm bảo không phải, nó chết vì nghèo đó chớ. Vì nghèo nên không đi rakhỏi cái xứ trần ai này được. Vì nghèo nên phải bỏ mạng vì gặp phải bọn cậy giàucoi sinh mệnh người như cỏ rác. Bứt mấy cọng ngò thôi mà, có phải thù oán gì cholắm đâu mà nhẫn tâm quá thể! Sáo cũng muốn đi hỏi người của bè rau Đại Thanh câuđó. Sao vậy, tại sao, vì sao?

- Thời thế loạn rồi, đất khôngcòn thì có thứ gì còn.  

Ông bán xôi dạo thở hắt ứ hự. Ôngnói bữa trước đi ngang bè rau nghe có tiếng kêu cứu, nghe trên đó rầy sao mầykhông chết đi, sống làm chi mà làm khổ người ta. Không biết “người ta” là ai,mắc mớ gì tới cái bọn sống sung sướng trên cái bè rau đó.

Sáo nghe xong tưởng trong lồngngực có thứ gì vừa đứt phựt, nó hức lên, anh ơi sao anh tới chỗ đó mà chết. Ủa,vậy chồng mình chết chỗ khác thì mình đỡ đau lòng hơn sao? Sáo giật mình nghĩvậy khi vừa khóc dứt. Trong nỗi ân hận, Sáo ngồi dựa vách ghe, mong xóm giềng cứngồi chơi, nếu không muốn nhắc tới chồng nó thì cứ nói chuyện bâng quơ, chuyệnnhững vùng đất cao cẳng xa xôi nước biển không bao giờ đuổi tới, chuyện ở đâu đócon chó đẻ ra con dê, cây dừa có chín đọt... Hoặc họ không nói gì cũng được, cahát cũng được... Nhưng họ phải về, phải sống. Cuối buổi sáng là nhà chức tráchxả nước ngọt ở các máy nước công cộng, không kịp chèo ghe đi lấy sẽ không cónước nấu cơm, tắm giặt...

Sáo chỉ còn một mình.

Một mình.

Sáo lết đi bắc xoong cơm lên bếplửa. Cảm thấy tay áo giở lên còn không nổi. Bụng không đói, miệng thì đắng nhưngSáo phải ăn, để chờ người ta trả lời tại sao chồng nó chết. Đợi chán Sáo lạichèo ghe tới chỗ nhà chức trách thăm chừng, khi thì thấy vài anh say sưa chơicờ, khi thì thấy một anh ngủ gục bên bàn làm việc kệ ruồi o e trên mép. Hỏi thìhọ chưng hửng nói cô còn đợi sự thật nào. Như thể có rất nhiều sự thật nằm nhấpnhổm trong ngăn kéo, và họ đang chọn một cái sự thật hợp với tướng tá xơ rơ, túiáo lép kẹp của Sáo.

Hơi thất vọng, Sáo chèo trongchảo nắng mặn trở về, bỗng nín thở nhìn thấy cái lưng dài nhằng của chồng mìnhtrên mái nhà. Em chồng Sáo mang nó về, cả đôi chân mày rậm. Nó thảng thốt hỏichị Hai làm gì vậy. Sáo nói chị đâu có làm gì. Trời ơi chị sởn tóc xơ cờ kìa.

Em chồng nhìn Sáo như thể kêu Sáonín đi, như thể Sáo sởn tóc là một cách khóc. Sáo chỉ gượng cười rồi luýnh quýnhđi nấu cơm cho em chồng ăn, bận bịu làm sự sống quay trở lại trong nó. Sáo đãquen sống và làm lụng vì ai đó. Như bà nội Sáo vì thương chồng mà bơi xuồng đicưới hai bà vợ bé cho chồng, như má Sáo vì chuộc chồng khỏi núi nợ ở trường gàmà phải bán hết đất lên ghe sống lênh đênh.

Năm mười chín tuổi, nghe má aoước “lúc chết được nằm trên đất của mình”, Sáo lấy chồng. Lấy người má nó chọn,lý do “thằng đó có tới ngoài chục công đất”. Sáo nhìn thấy chồng lần đầu khi anhđang ôm con gà tre đi trên đường, miệng ngậm vung vinh cọng cỏ mần trầu, nó tựhỏi đây sẽ là chồng mình sao? Lễ ăn trầu uống rượu rồi, chồng vỗ mông Sáo, nólại hỏi đây là chồng mình sao? Hôm cưới nghe chồng phả hơi rượu nóng rực vô vànhtai, vẫn hỏi chồng mình đó sao? Nhưng lúc Sáo cài khuy áo lại, ngó cái ngườiđang lật ra ngủ queo đó, nó nghĩ đây là chồng mình. Nghẹn căng ứ mũi.

Má Sáo vui lắm, gói ghém mấy lễ,bà mua hai công đất dành để chôn. Nhờ con gái hiếu thảo mà thím đổi đời rồi, mágiả đò vu vơ khoe với một khách thương hồ quen, không lâu sau anh ta cũng lấycon gái nhà giàu dưới chợ.

Nước đuổi vào sâu Châu Thổ, đất -thứ mà vì nó mà Sáo lấy chồng - trở nên vô nghĩa, như cái tên xóm Rẫy mà còn cáirẫy nào đâu.

Giờ đến cả chồng, Sáo cũng làmmất.

Em chồng rút trong túi xách ra bộđồ tây mới cáu đặt cạnh đôi dép da mà nó đã mua cho chồng Sáo từ năm trước. Mónquà còn nguyên niêm mạc, chồng Sáo chưa đi lần nào, anh nói chờ kiếm có quần áođẹp mặc cho đúng điệu. Có lần đi chợ gặp em chồng, Sáo kể, nó buột miệng chửithề: “Má, thằng cha cầu kỳ quá, con nhà lính tính nhà quan...”. Giờ thìem chồng im lìm ngồi vuốt mớ đồ của anh nó. Bao giờ chồng nhập thổ, Sáo sẽ chônchúng theo.

Ngó cái cảnh đợi công lý của Sáo,thằng em chồng cười khào, con dao bấm trên tay cứ lè lưỡi ra tanh tách, sángquắc. Nó nói: “Công lý ở trong tay mình mà, chị Hai...”.

Em chồng đi giang hồ từ nhỏ, lưngem giờ đã hai mươi hai cái thẹo, đó là những lần em thực thi công lý hay bị cônglý của nhóm giang hồ khác thực thi. Không thẹo người ta không biết mình dângiang hồ, em khoe vậy, giống như ở chợ hay gắn chữ văn hóa cho người ta biết làcó văn hóa vậy. Em chồng cũng thường khoe công lý của em nhanh hơn, luật của emcông bằng, sòng phẳng hơn. Không tin không được, nhiều lần nó tìm lại những mónđồ nhà Sáo bị trộm lấy đi, dù chúng đã bị thay hình đổi dạng, bị tháo rã ra bánđầu một nơi mình một nẻo. Nó còn dẫn thằng ăn trộm về biểu: “Xin lỗi anh chịHai tao, mầy!”, và thằng kia cun cút cúi đầu.

Nhưng đó chỉ là thằng trộm nhỏthó hom hem, giờ em chồng Sáo sẽ đối đầu với một bè rau đông người lắm của. Emchồng đi rồi Sáo nóng ruột bồn chồn quá, như thể chỉ cần vo gạo rồi ôm cái nồivào bụng, gạo sẽ sôi thành cơm. Mấy bữa sau nghe ở mấy máy nước công cộng ngườita hể hả bàn tán, nói xe hơi của nhà Đại Thanh dưới chợ bị đập phá, tụi giang hồcòn đánh thuốc chết mấy con chó, tưới xăng định đốt biệt thự, may mà nhà chứctrách tiếp cứu kịp.

Bữa sau nữa, người ta rủ Sáo đicoi một bảo vệ của bè rau bị dìm chết. Sáo không đi, nó không chắc mình sẽ hả hêkhi nhìn thi thể đó. Sáo sợ cái bàn lạnh ngắt giữa căn phòng lạnh ngắt, nơi hơithở một con người bỗng dưng biến mất. Ở đó, biết đâu cũng có con đàn bà gột rửada thịt chồng bằng nước mắt, mong gọi những hơi thở trở về.

Nhưng buổi tối hôm đó Sáo đã phảixuôi ghe tới văn phòng của nhà chức trách, vì em chồng Sáo. May phước, em chồngkhông nằm trên bàn mà bị trói gô, khiến cái lưng dài thượt gần như cuốn trònlại. Sáo thở phào nhẹ nhõm dù hoàn cảnh của thằng em hiện giờ rất cay đắng. Vậymấy bữa qua Sáo đã bồn chồn lo lắng cho ai? Nó tự hỏi, người mướt mồ hôi lạnh.Ngó vẻ mặt đờ đẫn của Sáo, em chồng cố an ủi mà giọng nói cứ nghiến sít sìn sịt:

- Chị buồn gì, tụi nó bắt tuinhư bắt cóc bỏ dĩa. Chỉ uổng là tui chưa kịp bẻ cổ thằng Giang.

Câu nói làm Sáo rúm ró.

Theo Tuổi trẻ