Nhờ khơi thông nguồn ngoại tệgăm giữ, Ngân hàng Nhà nước đã ổn định được tỷ giá trong thời gian khá dài. Tuynhiên, sự chênh lệch “đô - đồng” kèm theo tăng trưởng nóng tín dụng ngoại tệđang tạo nguy cơ phá vỡ ổn định tỷ giá.

Hiệu ứng lãi suất “đô - đồng”

Tính đến 3/8, tỷ giá bình quân liên ngân hàng dừng ở 20.608 VND/USD và vẫn trongxu thế giảm ở mức thấp nhất trong gần nửa năm nay. Còn ở góc độ thị trường, cóvẻ như Ngân hàng Nhà nước vẫn tiếp tục “ép” giá mua khi mà ngày 3/8, giá bán củaVietcombank là 20.615 VND/USD nhưng giá mua tại Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nướcchỉ là 20.600 VND/USD.

Đặc biệt, quan sát tốc độ tăng trưởng tín dụng giữa VND và USD, thấy rằng, tínhđến 20/7 so với 20/6, nếu tín dụng VND ước giảm 0,88% thì tín dụng ngoại tệ vẫntăng 1,96% (con số này của tháng 5/2011 là 2,19%).

Mặc dù thị trường đã quá quen với diễn biến ngược chiều giữa tín dụng ngoại tệvà nội tệ như nói trên đã nhiều tháng nay, nhưng không ít người vẫn bất ngờ khităng trưởng tín dụng VND của tháng 7 âm 0,88%. Bởi lẽ, chúng là dấu hiệu đángbuồn của các tổ chức tín dụng khi không thể cho vay ra mà chúng tôi sẽ đề cậptrong một bài viết khác.

Trở lại với câu chuyện tỷ giá ổn định trong thời gian qua và vấn đề tăng nóngtín dụng ngoại tệ, thấy rằng, gần như vế thứ nhất là hệ quả của vế thứ hai. Và ởmột chừng mực nào đó, liệu pháp “buông” tín dụng ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nướcđang thu được những kết quả nhất định.

Theo phân tích của những cán bộ kinh doanh ngoại tệ ở một số ngân hàng lớn thìNgân hàng Nhà nước đã hành động khá dè dặt trước diễn biến chênh lệch lãi suất“đô - đồng” trong suốt một thời gian dài. Có nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưngcó hai lý do chính để nhà điều hành xử sự như vậy.

Thứ nhất, trong 6 tháng đầu 2011, Ngân hàng Nhà nước dùng nhiều chính sách épcác nguồn ngoại tệ đang găm giữ trong tổ chức kinh tế và dân cư bán lại cho ngânhàng. Theo đó, khi chênh lệch lãi suất “đô - đồng” tăng cao, nguồn găm giữ bắtđầu bán ra, mặc dù trong lúc thanh khoản VND ở các ngân hàng khó khăn, nhưng nhàđiều hành chưa vội mua ngay. 

Một mặt, nhà điều hành tái cấp vốn cho những đơn vị nhạy cảm về thanh khoản, mộtmặt hút ròng VND về để kiềm chế lạm phát và tăng giá trị của VND. Cùng thời gianđó, Ngân hàng Nhà nước bắt đầu mua nhưng nhỏ giọt. Sự chần chừ có chủ ý nàykhiến cho nhiều ngân hàng rất sốt ruột, vì tiền đồng thì khan hiếm, tiền đô thìdư thừa nhưng không biết bán cho ai. 

Đến nỗi, thời gian đó Hiệp hội Ngân hàng phải gửi đề xuất lên Ngân hàng Nhà nướcnên tăng cường mua lại ngoại tệ của các ngân hàng dưới hình thức giao ngay hoặchoán đổi.

Ổn định tỷ giá và chuyện “Tái ông thất mã”
Ở một chừng mực nào đó, liệu pháp “buông” tín dụng ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước đang thu được những kết quả nhất định (Ảnh: Reuters)

Tuy nhiên, từ tháng 5/2011, nhà điều hành mới tăng tốc mua nhưng vẫn dùng chiếnthuật “dập dờn” về giá và tiếp tục ép giá cho đến nửa đầu tháng 6/2011. Nhiềungày liền, thị trường chứng kiến giá mua của Ngân hàng Nhà nước luôn thấp hơngiá chào bán của Vietcombank. Trong một số ngày của tháng 7/2011, nhà điều hànhtăng mua hơn và có những ngày đặt giá mua có lợi hơn cho bên bán.

Với cách làm này, Ngân hàng Nhà nước đã khơi thông dòng chảy ngoại tệ trong nềnkinh tế, từng bước tháo gỡ tâm lý găm giữ ngoại tệ đè nặng lâu nay; đồng thời ổnđịnh được tỷ giá và mua được nhiều USD hơn để bổ sung vào dự trữ quốc gia. Theotài liệu chính thức của Chính phủ gửi tới các đại biểu Quốc hội nhân kỳ họp đầutiên của Quốc hội khóa 13 khai mạc vào ngày 21/7, thì lượng ngoại tệ mà Ngânhàng Nhà nước mua vào từ đầu năm đã là 4 tỷ USD.

Thứ hai, khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện chiến thuật để lãi VND cao hơn lãisuất USD, thị trường đã xuất hiện hành vi “chơi tiền”. Nhiều doanh nghiệp đã vayUSD, bán lại cho ngân hàng thu tiền đồng về để hưởng chênh lệch lãi suất. Nhờđó, ngân hàng thương mại chuyển hóa được nguồn ngoại tệ huy động trong hệ thốngsang ngoại tệ kinh doanh, góp phần ổn định tỷ giá.

“Tái ông thất mã”?

Tuy nhiên, mặt trái của liệu pháp này bắt đầu lộ diện.

Theo phân tích của một chuyên gia tài chính, từ năm 2010 đến nay, Ngân hàng Nhànước đã “thả” tín dụng ngoại tệ hơi quá đà. Tốc độ tăng trưởng tín dụng ngoại tệnăm 2010 là trên 30%. Sáu tháng đầu năm 2011, tín dụng ngoại tệ tăng 22,21%, caogấp 8,16 lần tín dụng VND, vốn chỉ tăng 2,72%! 

Mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã cảnh báo các tổ chức tín dụng, nhưng trong tháng 7,tín dụng ngoại tệ vẫn tăng 1,96% so với tháng trước, trong khi tăng trưởng tíndụng VND thậm chí âm 0,88%.

Không phủ nhận rằng, thanh khoản ngoại tệ đối với các ngân hàng hiện nay bắt đầucăng thẳng. Bởi thế, nhiều chuyên gia tài chính đồ rằng, thời gian tới, Ngânhàng Nhà nước khó có lựa chọn nào khác ngoài thắt chặt tín dụng ngoại tệ, vấn đềlà thắt vào lúc nào và thắt như thế nào.

Theo một số ý kiến, nếu siết chặt lại tín dụng ngoại tệ, hiện Ngân hàng Nhà nướccó hai cách.

Thứ nhất, nhà điều hành ban hành một văn bản và nêu một số nội dung “cấm, cản”như: hạn chế tiếp cận tín dụng ngoại tệ đối với đối tượng không có nguồn ngoạitệ tái tạo; rà soát kỹ doanh nghiệp, kể cả đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩuđể cho vay đúng đối tượng.

Ngoài ra, hiện có tình trạng vay mượn ngoại tệ mặc dù chưa đến kỳ trả nợ nhưngvì thấy rằng lãi suất VND vẫn cao hơn lãi suất USD nên vẫn làm thủ tục đề nghịngân hàng cho vay tiếp một vòng nữa. Vì thế, Ngân hàng Nhà nước có thể yêu cầucác tổ chức tín dụng hạn chế việc cho vay thêm một vòng, hai vòng đối với nhómnày. Với động thái này, chắc chắn mức độ, tốc độ cung ứng ngoại tệ ra thị trườngtrong tương lai sẽ bị giảm và chậm lại.

Thứ hai là sử dụng công cụ tăng dự trữ bắt buộc. Cái khó đối với nhà điều hànhlà mới chỉ hơn một tháng trước đây, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số1209/QĐ-NHNN về điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổchức tín dụng.

Cụ thể, đối với tiền gửi ngoại tệ dưới 12 tháng của Agribank, QuỹTín dụng Nhân dân Trung ương, ngân hàng hợp tác là 6%/tổng số dư tiền gửi ngoạitệ; còn tất cả tổ chức tín dụng khác là 7%/tổng số dư tiền gửi ngoại tệ. Tươngtự, đối với tiền gửi ngoại tệ trên 12 tháng lần lượt đối với các đối tượng trênlà 4% và 5%.

Tuy nhiên, dù tiến hành theo cách nào thì Ngân hàng Nhà nước cũng đánh đi mộtthông điệp ra thị trường là “siết chặt tín dụng ngoại tệ nhằm tránh áp lực lêntỷ giá”. Và tất yếu, thị trường sẽ phản ứng bằng cách tiếp tục găm giữ, tranhthủ lúc giá thấp để tăng mua phòng rủi ro tỷ giá. Đối với ngân hàng cũng vậy.Nhà băng sẽ tích cực tăng mua hơn tăng bán, coi đó như hình thức hỗ trợ nguồnthanh toán cho mình.

Một chuyên gia tài chính cho rằng, giá như Ngân hàng Nhà nước ngăn tăng trưởngtín dụng ngoại tệ sớm hơn, thì hẳn bây giờ, chúng không có nguy cơ thành “bongbóng”. “Tôi cho rằng, Ngân hàng Nhà nước đã mua vào được nhiều tỷ USD thì đếnbây giờ Ngân hàng Nhà nước phải trả giá cho thành công đó thôi”, ông này bìnhluận thêm.

Đến đây, chợt nhớ điển tích “Tái ông thất mã”. Rằng xưa có ông lão ở ải NhạnMôn, giáp biên giới nước Tàu và nước Hồ bị mất ngựa. Người thân chia buồn, ôngnói: “Mất ngựa biết đâu lại là phúc”. Mấy tháng sau, con ngựa của ông trở về vàmang theo một con khác. Người thân lại chúc mừng, ông trả lời: “Biết đâu, đượcngựa lại là họa”. Thế rồi, vì quá thích con ngựa mới, con trai ông mải mê cưỡingựa nên bị ngã què chân. Hàng xóm chia buồn, ông thủng thẳng: “Què chân có khilại là phúc”. Mấy tháng sau chiến tranh nổ ra, trai làng ra trận và bị tử nạnrất nhiều, riêng con trai ông bị què, nên bố con vẫn có cơ hội sum vầy.

Theo Nguyễn Hoài
VnEconomy