Theo ông Nghĩa, nềnkinh tế Việt Nam đã phục hồi thể hiện là tăng trưởng GDP đã đạt cao hơn trongquý 2/2010, xuất khẩu tăng nhanh, giải ngân FDI tăng so với cùng kỳ… nhưng bêncạnh đó còn nhiều khó khăn: tồn kho cao, thu hút vốn FDI gặp khó khăn và thâmhụt thương mại đã gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái.
Diễn biến lạm phát cũng cho thấy dấu hiệu ổn định. CPI tính chung 7 tháng đầunăm tăng 4,84% so với tháng 12/2009 và bình quân tháng tăng 8,67% so với cùng kỳnăm trước. Tuy giá lương thực tăng do thiên tai ở nhiều nước, và giá xăng dầuvừa được điều chỉnh tăng từ 9/8 song dự kiến trong hai tháng cuối của quýIII/2010, giá cả chưa có đột biến xấu và lạm phát của tháng 8 và tháng 9 sẽ tăngkhoảng 0,3%/tháng.
Sang quý IV/2010, lạm phát có thể tăng cao hơn do yếu tố mùavụ, tuy nhiên với tình hình phục hồi kinh tế thế giới năm 2010 và 2011 được dựbáo còn nhiều khó khăn, cũng như tăng trưởng kinh tế trong nước vẫn vướng nhiều“nút thắt” chưa được tháo gỡ thì giá các nhóm hàng hóa thiết yếu như lương thực,thực phẩm, xăng dầu khó có biến động lớn, do đó lạm phát bình quân các tháng 10,11, 12 sẽ chỉ xoay quanh mức 0,5%/tháng, CPI dự kiến chỉ khoảng dưới 8%.
“Nút thắt” tín dụng
Tính đến cuối tháng 7, mặt bằng lãi suất huy động trung bình của 36 ngân hàngthương mại đã xuống mức 11,09%/năm và lãi suất cho vay đối với các đối tượng ưutiên đã giảm từ 0,5-1,5% so với quý 1/2010, theo đó lãi suất cho vay ngắn hạndao động ở mức 12,5%/năm và cho vay trung, dài hạn mức 13-14%/năm.
Tuy nhiên,lãi suất cho vay phổ biến vẫn ở mức khá cao 15-16%/năm và về căn bản doanhnghiệp vừa và nhỏ rất khó tiếp cận vốn ngân hàng. “Đây cũng có thể coi là nhữngnỗ lực của Chính phủ và ngân hàng trong quá trình giảm lãi suất, thúc đẩy đầu tưcủa khu vực doanh nghiệp và tư nhân.
Tuy nhiên, kết quả đạt được còn rất hạn chế.Nếu tình hình này kéo dài, không được khắc phục kịp thời, sẽ ảnh hưởng xấu tớikhả năng duy trì tăng trưởng kinh tế ổn định trong những tháng tới”- ông Nghĩanhấn mạnh.
Tính tới hết ngày 31/7/2010, tăng trưởng dư nợ tín dụng đạt 12,97%, huy động vốntăng 16,3%, trong đó tăng trưởng tín dụng bằng VND tăng 4% trong tháng 7/2010,đưa mức tăng trưởng của 7 tháng đầu năm lên 5,7% so với cuối năm 2009. Tuy nhiên,mức tăng này vẫn thấp hơn nhiều hơn so với mức tăng trên 34% của tín dụng ngoạitệ.
![]() |
Dự báo quý 4/2010, diễn biến tỷ giá USD sẽ khá phức tạp bởi cung cầu ngoại tệ có một số thay đổi nhất định |
Theo ông Nghĩa, trongnhững tháng tới, tín dụng VND sẽ tiếp tục tăng khi khả năng tăng cho vay ngoạitệ hầu như không còn, và Ngân hàng Nhà nước đang nỗ lực đẩy mạnh hơn việc bơmvốn cho các ngân hàng thương mại qua thị trường mở theo chỉ đạo của Chính phủ.
Tuy nhiên, ông Nghĩa cho rằng, hiện thị trường tín dụng vẫn tồn tại một số ràocản hành chính khiến cho mặt bằng lãi suất chưa thể giảm nhanh và mạnh như mongđợi. “Đâychính là những “nút thắt” không chỉ đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng màcòn là “nút thắt” cho tăng trưởng của cả nền kinh tế” -ông Nghĩa khẳng định.
Cụ thể, với việc bơmtiền trên thị trường mở đều đặn trong 2-3 tháng qua khiến cho nguồn vốn trên thịtrường 2 (thị trường liên ngân hàng) khá dồi dào nhưng các ngân hàng thương mạibị hạn chế dung vốn huy động trên thị trường liên ngân hàng làm vốn tín dụng dẫntới thiếu vốn cho vay và không thể tiếp cận vốn trên thị trường liên ngân hàngđang rẻ và dư thừa.
Hệ quả là các ngânhàng này phải tìm mọi cách tăng lãi suất huy động lên mức cao nhất có thể để tìmnguồn vốn trong khu vực doanh nghiệp và dân cư, kéo theo các ngân hàng khác cũngkhông thể hạ lãi suất huy động của mình để đảm bảo tính cạnh tranh do đó cả lãisuất huy động và cho vay đều không thể giảm nhiều và nhanh nư mục tiêu của Chínhphủ.
Không những thế, quy định này còn đẩy các ngân hàng thiếu thanh khoản vào tìnhthế tìm mọi cách lách luật để tồn tại, theo đó các ngân hàng thức hiện mức lãisuất huy động gần như bằng nhau cho tất cả các kỳ hạn, nhờ đó sẽ huy động đượcnhiều tiền gửi ngắn hạn và lách được quy định của Ngân hàng Nhà nước về giới hạn30% tiền gửi ngắn hạn huy động cho vay trung và dài hạn.
“Với biểu lãi suấtnhư vậy, các ngân hàng thương mại có thể đẩy lãi suất thực lên cao hơn, bởi lẽlãi suất thực phụ thuộc và kỳ hạn gửi và cách tính lãi chứ không phụ thuộc vàochỉ số phần trăm” - ông Nghĩanhấn mạnh.
Ngoài ra các quy định tại thông tư 13 về tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huyđộng, ông Nghĩa cho rằng đã tạo ra những lo ngại về sự khan hiếm tín dụng trongnhững tháng tới.
“Nếu Ngân hàng Nhànước vẫn cố tiếp tục giữ những quy định thiếu thực tế như trên thì việc thựchiện mục tiêu đưa lãi suất về mức “vào 10 ra 12” chắc chắn sẽ càng khó khăn” -ông lưu ý.
Sức ép tỷ giá
Theo ông Nghĩa, tình hình tỷ giá USD trong tháng 7 và 7 tháng đầu năm liên tụcthay đổi và có nhiều điểm đáng chú ý: Cụ thể, trong suốt quý I/2010, thị trườngngoại hối thường xuyên căng thẳng với sự mất cân đối nghiêm trọng giữa cung vàcầu ngoại tệ, chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và chính thức lên đến trên200 VND/USD.
Sang quý 2, sức ép tỷ giá có dịu bớt và thậm chí nửa cuối quý 2, tỷ giá thịtrường tự do liên tục thấp hơn thị trường chính thức. Cần lưu ý, đây là điểmtrái quy luật và bất thường, chứ không phải dấu hiệu tích cực trong điều hành tỷgiá.
Ông Nghĩa lý giải rằng, việc tỷ giá thị trường tự do thấp hơn thị trường chínhthức phản ánh chênh lệch quá thấp giữa lãi suất cho vay bằng USD và VND, đã tạora một lượng cung ảo ngoại tệ rất lớn ra thị trường. Điều này không chỉ gây méomó cung cầu ngoại tệ mà còn tạo ra những hệ lụy phức tạp trong điều hành tỷ giágiai đoạn sau.
|
Đến tháng 7, sau hơn 2tháng xoay quanh mức dưới 19.000 VND/USD thì tỷ giá USD đã có dấu hiệu đi lên.Việc tỷ giá thị trường tự do chuyển từ mức thấp hơn sang mức cao hơn tỷ giáchính thức là dấu hiệu tích cực cho thấy việc quy định hạn chế cho vay bằngngoại tệ đã bắt đầu phát huy tác dụng và đang dần xóa bỏ được lượng cung USD ảora thị trường.
Tuy nhiên, việc giá mua USD bằng giá bán và luôn chạm trần tại các ngân hàngthương mại thời gian qua cho thấy hiện tượng “bình ngưng” vốn rất phổ biến trênthị trường ngoại hối trong năm 2009 đã chớm có dấu hiệu quay trở lại, nó phảiánh tình hình ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại đã bắt đầu căng thẳng và cóhiện tượng thu thêm phí ngầm trong hoạt động mua bán ngoại tệ tại các ngân hàngnày.
Ông Nghĩa cũng dự báo trong thời gian tới, đặc biệt là quý 4/2010, diễn biến tỷgiá USD sẽ khá phức tạp bởi cung cầu ngoại tệ có một số thay đổi nhất định do:nhập siêu trong 7 tháng đầu năm ở mức 7,355 tỷ USD tăng hơn gấp đôi so với mức3,888 tỷ USD 7 tháng đầu năm 2009 và vẫn đang trong xu hướng tiếp tục tăng ở cáctháng cuối năm do nhu cầu nhập máy móc, nguyên liệu, thiết bị tăng khi nền kinhtế phục hồi.
Nhu cầu vay ngoại tệđang có xu hướng giảm do lãi suất VND giảm nhẹ, trong khi lãi suất ngoại tệ tănglên; mặt khác, các NHTM đang hạn chế dần cho vay ngoại tệ do lo ngại tỷ giá hốiđoái thay đổi, vì vậy, nguồn cung ngoại tệ (ảo) có xu hướng giảm. Việc các doanhnghiệp đang có chiều hướng gom USD để trả nợ cũng đã đẩy tỷ giá tăng lên do đâylà thời điểm mà các hợp đồng vay ngoại tệ đáo hạn (đối với các hợp đồng có kỳhạn từ 3 tháng trở xuống) và chuẩn bị đáo hạn đối với cách hợp đồng trên 3 tháng.
Yếu tố tâm lý cũng làmột yếu tố quan trọng trong thời gian tới khi người dân cho rằng các doanhnghiệp sẽ cần mua gom ngoại tệ để trả nợ, do đó sẽ thúc đẩy người dân và doanhnghiệp găm giữ ngoại tệ chờ giá lên. Xét trên khía cạnh chênh lệch lạm phát giữahai nước Mỹ và Việt Nam, VND vẫn trong quỹ đạo mất giá so với đồng USD…
Từ đó, ông Nghĩa đềnghị: NHNN cần tính toán, dự báo lượng bán ra can thiệp khi cần thiết, đặc biệtvào giữa quý III - thời điểm tăng đột ngột biến cầu về ngoại tệ cho nhập khẩucủa các doanh nghiệp và các hợp đồng vay ngoại tệ đáo hạn, đồng thời có thể điềuchỉnh nhẹ tỷ giá ngay trong quý III/2010 hoặc đầu quý IV/2010 khi có những tínhiệu rõ ràng hơn của thị trường hối đoái.
Tóm lại, rủi ro tàichính vĩ mô đáng kể nhất mà Việt Nam có thể gặp phải trong trung hạn là vấn đềtiền tệ, cụ thể là vấn đề tỷ giá hối đoái, khi mà sức ép tỷ giá đang gia tăngtừ nhiều phía như thâm hụt vãng lai lớn (chênh lệch giữa tỷ lệ đầu tư và tiếtkiệm nội địa trên GDP rất lớn là 12%); tài sản có ngoại tệ ròng của hệ thốngngân hàng giảm mạnh; tỷ lệ vốn từ bên ngoài so với dự trữ ngoại tệ đã tăng từ37% năm 2009 lên 80%, trong khi tỷ giá hối đoái kém linh hoạt và bị định giá quácao so với tỷ giá thực…
Theo Diễn đàn doanh nghiệp