Từ năm 1975 đến nay, ở Việt Nam chưa có ngân hàng thương mại nào tuyên bố phá sản...
Từ năm 1975 đến nay, ở Việt Nam chưa có ngân hàng thương mại nào tuyên bố phá sản...
Trong một số trường hợp, cổ đông ngân
hàng chưa chắc đã mất hết tiền nếu ngân hàng có nhiều tài sản có giá trị
cao, chẳng hạn như bất động sản.
Ngân hàng Nhà nước đã chấp nhận đưa thêm cụm từ “phá sản”
vào Thông tư về xử lý ngân hàng yếu kém, trái với lời khẳng định trước
đó không lâu là “sẽ không để ngân hàng nào đổ vỡ”.
Từ
năm 1975 đến nay, ở Việt Nam chưa có ngân hàng thương mại nào tuyên bố
phá sản. Và cả thị trường dường như đều có chung niềm tin rằng sẽ không
bao giờ có chuyện này xảy ra. Nhưng niềm tin đó liệu có còn đúng, khi
trong Thông tư 07/2013 của Ngân hàng Nhà nước mới đây đã xuất hiện cụm
từ “phá sản”?
3 con đường cứu ngân hàng
Việc Ngân
hàng Nhà nước chấp nhận đưa thêm cụm từ “phá sản” vào Thông tư 07 đã tạo
ra bất ngờ, bởi chỉ nửa năm trước, sau sự cố Bầu Kiên, chính Thống đốc
Nguyễn Văn Bình đã khẳng định “sẽ không để ngân hàng nào đổ vỡ”.
Trong
lịch sử, đây cũng không phải là lần đầu Ngân hàng Nhà nước xử lý các
ngân hàng yếu kém. Quay ngược trở lại giai đoạn khủng hoảng ngân hàng
vào những năm 1990, có khá nhiều ngân hàng thương mại đã được đưa vào
diện kiểm soát đặc biệt. Nhiều ngân hàng tiến hành sáp nhập, hợp nhất,
mua lại đổi tên, thậm chí giải thể. Kết quả là số lượng ngân hàng thương
mại cổ phần giảm từ 51 (năm 1997) xuống còn 39 (năm 2001). Ngược lại,
cũng không ít ngân hàng được vực dậy và phát triển trở lại sau cuộc
khủng hoảng như Eximbank, VP Bank hay Maritime Bank.
Tuy nhiên,
có sự khác biệt lớn giữa hai giai đoạn. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đã
mở lối cho những ngân hàng yếu kém không thể tái cấu trúc được, cho dù
có sự giúp đỡ của Ngân hàng Nhà nước, thì buộc phải phá sản.
Phá
sản một ngân hàng thường không đơn giản. Bởi điều khác biệt lớn nhất
giữa một ngân hàng và doanh nghiệp phi tài chính là hệ thống người gửi
tiền và sự liên hệ chặt chẽ giữa các ngân hàng với nhau. Vì thế, phá sản
ngân hàng là lựa chọn cuối cùng, khi những nỗ lực xử lý trước đó của
ngân hàng trung ương không thành công.
Bước đi đầu tiên và dễ
dàng nhất là bơm tiền để các ngân hàng yếu kém duy trì hoạt động với hy
vọng chúng sẽ cải thiện được tình hình. Tuy nhiên, đây là biện pháp tốn
kém và khó giải quyết được gốc rễ của vấn đề.
Một phương pháp ưa
thích của các ngân hàng trung ương là khuyến khích hoặc ép buộc các
thương vụ mua bán sáp nhập. Theo Tiến sĩ Lê Hồng Giang, quan trọng nhất
là tìm được một ngân hàng khác chịu ôm phần nợ của ngân hàng yếu kém. Ưu
điểm của phương pháp này là tiết kiệm được một khoản tiền mặt khổng lồ.
Đây
cũng chính là con đường Việt Nam đang đi, với thương vụ điển hình là
Habubank sáp nhập vào SHB. Với khả năng thanh toán gần như bằng 0, vốn
chủ sở hữu giảm chỉ còn gần 200 tỉ đồng, Habubank được xem là gặp may
khi có SHB đứng ra bảo lãnh mọi khoản nợ. Đối với Ngân hàng Nhà nước,
đây là một thành công khi có thể bảo toàn được khoản tiền gửi của người
dân tại Habubank trị giá 18.700 tỉ đồng.
Ngân hàng Nhà nước cũng
đã thành công với thương vụ hợp nhất đình đám giữa 3 ngân hàng ở trong
tình trạng mất thanh khoản trầm trọng SCB, FicomBank và TinnghiaBank
trong năm 2011. Trong cuộc hợp nhất này, Ngân hàng Nhà nước đã dùng 2
công cụ để xử lý: thứ nhất là tái cấp vốn cho ngân hàng dưới sự tài trợ
vốn của BIDV và thứ hai là buộc 3 ngân hàng tự hợp nhất với nhau. “Chi
phí xử lý không lớn vì tài sản và nợ hầu như không đổi, chỉ có vốn chủ
sở hữu là bị mất bớt”, Tiến sĩ Giang cho biết.
Biện pháp cuối
cùng để xử lý ngân hàng yếu kém chính là quốc hữu hóa. Tuy nhiên, biện
pháp này chỉ được sử dụng khi ngân hàng đó “quá lớn để sụp đổ”, tức có
quá nhiều mối liên kết chằng chịt và to lớn trong hệ thống tài chính.
Đây cũng là biện pháp tốn kém nhất.
Bài học từ Thái Lan cho
thấy, để có tiền hỗ trợ hệ thống ngân hàng, ngoài việc phát hành một
lượng trái phiếu khổng lồ, Thái Lan đã 2 lần vay mượn Quỹ Tiền tệ Quốc
tế (IMF) tới 20 tỉ USD. Kết quả, Ngân hàng Trung ương Thái Lan đã thực
hiện sáp nhập và quốc hữu hóa 6 ngân hàng thương mại, 12 công ty tài
chính, đồng thời đóng cửa 1 ngân hàng thương mại và 56 công ty tài
chính.
Với biện pháp này, ngân hàng trung ương sẽ cử người ngồi
vào ghế quản trị ngân hàng, trực tiếp điều hành và thực hiện công việc
tái cấu trúc, cải thiện hoạt động kinh doanh. Sau khi đã ổn định mọi
thứ, ngân hàng trung ương sẽ bán cổ phần trở lại cho tư nhân và thậm chí
còn có thể thu lời để bù đắp cho chi phí tái cấu trúc.
Tiêu biểu
cho phương pháp này là Tập đoàn Bảo hiểm AIG. Trong giai đoạn khủng
hoảng tài chính 2008, AIG được Chính phủ Mỹ quốc hữu hóa vì họ là đầu
mối của các hợp đồng bảo hiểm phá sản tín dụng của các tổ chức tài chính
trên toàn cầu, trị giá tới hơn 50.000 tỉ USD.
Mọi chuyện sẽ rất
tốt đẹp nếu như xử lý thành công các tổ chức tín dụng mất khả năng thanh
toán bằng những con đường nói trên; nếu không, chính phủ cũng phải chấp
nhận để ngân hàng phá sản. Và ở Việt Nam, với Thông tư mở đường cho
việc để ngân hàng phá sản, phải chăng Ngân hàng Nhà nước đã hết chiêu để
xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém?
Đường nào cho Việt Nam?
Khi
một ngân hàng nộp thủ tục xin phá sản, phần tiền thu được từ việc thanh
lý tài sản sẽ được trả cho các chủ nợ theo thứ tự ưu tiên: cơ quan
thuế, người gửi tiền, các tổ chức tín dụng trên thị trường liên ngân
hàng, người sở hữu trái phiếu của ngân hàng, các nhà cung cấp sản phẩm
dịch vụ và cuối cùng là cổ đông của ngân hàng.
Về mặt lý thuyết, các ông chủ ngân hàng sẽ phải chịu thiệt nhiều nhất, nhưng thực tế không hẳn như vậy.
Theo
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu, thành viên Hội đồng Quản trị ABBank, trong một
số trường hợp, cổ đông ngân hàng chưa chắc đã mất hết tiền nếu ngân
hàng có nhiều tài sản có giá trị cao, chẳng hạn như bất động sản.
Đó
là chưa kể các chiêu tẩu tán tài sản của các ông chủ ngân hàng. Ông
Nguyễn Nam Sơn, Giám đốc Điều hành Quỹ Đầu tư Vietnam Capital Partners
(VCP), cho biết, trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, nhiều
ông chủ ngân hàng ở các quốc gia khủng hoảng đã tăng cường cho các đối
tác nước ngoài hoặc công ty sân sau do chính họ lập ra vay. Các khoản
vay này được ghi vào nợ xấu và trong trường hợp ngân hàng phá sản hay
được giải cứu, chúng đều được xóa bỏ. Vào thời điểm đó, giá trị các
khoản tẩu tán lên đến hàng tỉ USD.
Ở đây, có một khái niệm cần
làm rõ là cụm từ “ông chủ ngân hàng”. Những lợi thế nói trên chỉ thuộc
về cổ đông lớn, có thể là những người đang trực tiếp điều hành ngân hàng
và nắm trước những thông tin quan trọng. Cổ đông nhỏ tất nhiên không
thể có được cơ hội đó.
Câu chuyện của Habubank là một ví dụ. Chỉ
khi đến Đại hội Cổ đông vào tháng 4.2012, cổ đông Habubank mới vỡ lẽ
rằng sau báo cáo giám sát đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước vốn chủ sở hữu
của ngân hàng mình chỉ còn hơn 195 tỉ đồng, trong khi báo cáo tài chính
(đã được kiểm toán) năm 2011 ghi rằng, vốn chủ sở hữu của Habubank là
hơn 4.051 tỉ đồng.
Trở lại với vấn đề bảo vệ người gửi tiền, cổ
đông lớn ở những ngân hàng yếu kém chưa kịp tẩu tán tài sản thường có xu
hướng trì hoãn sự can thiệp của Nhà nước hoặc yêu cầu hỗ trợ thanh
khoản, với lý do đảm bảo các khoản tiền gửi cho dân chúng. Lý do này có
hoàn toàn thuyết phục?
Hãy xem xét Habubank trước khi sáp nhập.
Báo cáo tài chính hợp nhất quý 1/2012 cho thấy ngân hàng này có tổng tài
sản hơn 34.600 tỉ đồng. Như vậy, trong trường hợp phá sản, giả định tài
sản của Habubank được thanh lý với mức giá chiết khấu 50%, số tiền thu
về đã đủ để chi trả cho người gửi tiền, mà chưa cần sử dụng đến phần bảo
hiểm tiền gửi 50 triệu đồng/tài khoản.
Tất nhiên, những phân
tích này đều dựa trên giả định đơn giản, bởi thực tế Habubank phá sản
còn ảnh hưởng tới thanh khoản của các ngân hàng khác, do liên quan đến
các khoản tiền gửi, tiền vay trên thị trường liên ngân hàng và tác động
tâm lý đến thị trường. Điều đáng nói ở đây là lý do bảo đảm tiền gửi là
chưa hợp lý. Ngân hàng Nhà nước hoàn toàn có thể đứng ra cam kết trả lại
toàn bộ tiền gửi cho người dân, sau khi đã bán xong Habubank, tương tự
như cách Cơ quan Bảo hiểm Tiền gửi Mỹ (FDIC) đã làm với các ngân hàng
của nước này.
Quan trọng hơn, dù có cho phá sản ngân hàng hay
không thì một bài học lớn từ các nước đi trước là Ngân hàng Nhà nước
phải kiểm soát chặt chẽ các khoản ra vào của một ngân hàng đã nằm trong
danh sách giám sát, thậm chí phải phong tỏa tài sản.
Ông Đỗ Anh
Tú, Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị TienphongBank, cho rằng, ở Việt Nam
khó xảy ra chuyện phá sản ngân hàng. Việt Nam vẫn sẽ tập trung giảm số
lượng ngân hàng yếu kém bằng cách hợp nhất và sáp nhập, thay vì cho phá
sản. Và theo ông, quá trình này sẽ diễn ra chậm chạp, bởi các ngân hàng
vẫn có tâm lý chờ đợi Nhà nước rót vốn, thay vì bán mình với giá rẻ.
Hơn
nữa, không ít ông chủ ngân hàng tin rằng, trong trường hợp xấu nhất,
Ngân hàng Nhà nước vẫn còn một biện pháp cuối cùng trước khi cho phá
sản, đó là quốc hữu hóa. Trên thực tế, cho đến nay Ngân hàng Nhà nước
chưa sử dụng đến biện pháp này và có lẽ không ít ông chủ ngân hàng vẫn
trông chờ cơ hội được cứu vớt.
Tuy nhiên, còn một ý kiến khác cho
rằng không hề có chuyện ngân hàng phá sản. Theo ông Sơn, Quỹ Đầu tư
VCP, trong khoảng 150 năm trở lại đây, thế giới chưa từng có vụ phá sản
ngân hàng nào.
Người ta thường cho rằng Thái Lan, trong cuộc
khủng hoảng tài chính 1997, đã cho phá sản nhiều ngân hàng. Theo ông
Sơn, bản chất sự việc không phải như vậy. Một số ngân hàng mất khả năng
chi trả được sáp nhập vào các ngân hàng thuộc sở hữu của Chính phủ. “Nói
chính xác là có những ngân hàng đóng cửa và thương hiệu biến mất”, ông
nói.
Tương tự như việc phá sản ở Mỹ. Giai đoạn 2008 - 2012, FDIC
đã cho đóng cửa 465 tổ chức tín dụng, phần lớn có quy mô nhỏ. Các khoản
tiền gửi, tiền vay, chi nhánh đều được nhập vào một ngân hàng khác và
FDIC chấp nhận hứng chịu một phần lỗ.
Việc phá sản ngân hàng, vì
thế, có thể sẽ không dễ nhìn thấy như việc phá sản một doanh nghiệp
thông thường. Chẳng hạn, bình luận về thương vụ hợp nhất 3 ngân hàng
Việt Nam ở trên, Tiến sĩ Lê Hồng Giang cho rằng về bản chất thì 3 ngân
hàng này đã phá sản, sau đó BIDV đứng ra mua lại và lập ra một ngân hàng
mới.